Nhiều khó khăn, bất cập trong công tác dân số
Theo ghi nhận, hiện nay, công tác dân số ở tỉnh Bắc Kạn đang phải đối đầu với nhiều khó khăn thách thức. Bắc Kạn xếp trong nhóm các tỉnh có mức sinh cao; tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao, tăng dần qua các năm gần đây; tỷ lệ mất cân bằng giới tính khi sinh ở mức rất cao (năm 2020 ở mức 112,1 bé trai /100 bé gái); tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống vẫn đang tồn tại ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; cơ cấu dân số đang trong thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" về mặt số lượng nhưng chất lượng dân số còn thấp; tốc độ già hóa dân số có xu hướng tăng...
Trong khi đó, nhu cầu về dịch vụ KHHGĐ, chăm sóc sức khỏe sinh sản của người dân lớn song chưa được đáp ứng đầy đủ. Đến nay, vẫn còn một số cơ sở khám chữa bệnh chưa thực hiện được đầy đủ các dịch vụ KHHGĐ theo xếp loại đơn vị.
Khả năng tiếp cận dịch vụ kế hoạch hóa gia đình ở những địa bàn khó khăn và có mức sinh cao còn hạn chế, tác động không nhỏ đến kết quả cải thiện sức khỏe bà mẹ, trẻ em và chất lượng cuộc sống của người dân. Công tác tiếp thị xã hội, xã hội hóa phương tiện tránh thai và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình chưa được đẩy mạnh; một số phương tiện tránh thai chưa được cung ứng đầy đủ, kịp thời, chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn.
Thực tế, tổ chức bộ máy chuyên trách làm công tác dân số trên địa bàn những năm gần đây có sự thay đổi liên tục, chưa ổn định, nhất là ở cơ sở. Ngoài ra, nguồn lực đầu tư cho công tác dân số còn rất hạn chế và nhận thức của một bộ phận người dân, ngay cả một số cán bộ, đảng viên về công tác dân số chưa đúng. Thời gian qua, dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, kéo dài cũng ảnh hưởng không nhỏ đến việc tổ chức thực hiện các hoạt động truyền thông dân số.
Tuy nhiên, sau nhiều năm thực hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ của nhân dân, tỉnh Bắc Kạn đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong việc thực hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình và thực hiện kế hoạch giảm sinh trên cơ sở tăng tỷ lệ sử dụng các biện pháp tránh thai hiện đại, đáp ứng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ.
Mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản/KHHGĐ đã được củng cố, kiện toàn và phát triển từ tỉnh tới cơ sở, từng bước nâng cao chất lượng cung cấp dịch vụ, đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người sử dụng. Cung cấp miễn phí các phương tiện tránh thai cho các đối tượng nghèo, cận nghèo, các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng kinh tế khó khăn, đồng thời triển khai công tác tiếp thị xã hội, xã hội hóa phương tiện tránh thai và hàng hóa sức khỏe sinh sản trên thị trường...
Hàng năm, tỉnh Bắc Kạn đã tổ chức các đợt cung cấp dịch vụ KHHGĐ/SKSS tới xã khó khăn, xã có mức sinh cao của tỉnh góp phần giảm tỷ lệ viêm nhiễm đường sinh sản, giảm tỷ lệ phụ nữ mắc bệnh phụ khoa, giảm tỷ lệ có thai ngoài ý muốn và tăng số người chấp nhận sử dụng biện pháp tránh thai.
Hệ thống cung ứng dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cơ bản đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của chương trình kế hoạch hóa gia đình; chất lượng hệ thông tin quản lý hậu cần phương tiện tránh thai và cung cấp dịch vụ kế hoạch hóa gia đình luôn được duy trì thực hiện.
Mục tiêu mới cùng nhiều giải pháp mang tính đồng bộ
Để đạt được mục tiêu đề ra là "Phấn đấu đạt và duy trì vững chắc mức sinh thay thế, góp phần thực hiện thành công Kế hoạch hành động giai đoạn 2020-2025", tỉnh Bắc Kạn thực hiện Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030, bảo đảm phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội địa phương. Chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2025, đạt được mức sinh thay thế (bình quân mỗi phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ có 2,1 con) và duy trì vững chắc mức sinh thay thế.
Để thực hiện đạt mục tiêu và chỉ tiêu này, tỉnh Bắc Kạn đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp mang tính đồng bộ. Đó là tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền, trong đó thống nhất nhận thức trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc vận động thực hiện mỗi cặp vợ chồng sinh đủ 2 con, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc.
Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo ở những địa bàn đông dân cư và địa bàn có tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên cao. Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi hành vi, đặc biệt là tuyên truyền thực trạng mức sinh và mục tiêu giảm sinh của tỉnh. Tập trung vận động không kết hôn và sinh con quá sớm, không sinh quá dày và không sinh nhiều con, đặc biệt chú trọng đến các cặp vợ chồng sinh con một bề, đã sinh 2 con và có ý định sinh thêm con.
Đồng thời điều chỉnh, hoàn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích như chính sách hỗ trợ phương tiện tránh thai và chi phí dịch vụ tránh thai; hỗ trợ triệt sản và tư vấn... Cùng với đó là mở rộng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản, kế hoạch hóa gia đình và các dịch vụ liên quan; kiện toàn tổ chức bộ máy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân số, y tế. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết hằng năm và giai đoạn.