Trong thời gian qua, công tác Dân số - KHHGĐ trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của cấp ủy Đảng, chính quyền và sự phối hợp của các sở, ban, ngành, đoàn thể cùng với nỗ lực của những người làm công tác Dân số - KHHGĐ từ tỉnh đến cơ sở, đặc biệt là sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân trong việc thực hiện chính sách, Chỉ thị, Nghị quyết về công tác Dân số.
Nghị quyết số 21-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đã nhấn mạnh "Dân số là yếu tố quan trọng hàng đầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Công tác dân số là nhiệm vụ chiến lược, vừa cấp thiết vừa lâu dài; là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân".
Trong thời gian qua, nhằm khống chế tốc độ gia tăng dân số ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các chính sách dân số của nước ta với các quan điểm và hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện mục tiêu nhất quán là giảm mức sinh, giảm tỷ lệ gia tăng dân số, giảm sức ép của dân số đến quá trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước.
Cùng với cả nước, trong những năm qua công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của tỉnh Bắc Kạn đã được triển khai rộng khắp trên địa bàn các huyện, thành phố và đạt được nhiều kết quả quan trọng: Bắc Kạn đang trong giai đoạn "cơ cấu dân số vàng", nhận thức và thực hành của người dân về chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình đã có những chuyển biến tích cực; mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số từng bước củng cố, phát triển đáp ứng cung cấp các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình cơ bản cho nhân dân; một số chương trình, đề án về nâng cao chất lượng dân số đang triển khai thí điểm tại một số địa bàn... Qua đó, đã nâng cao mức độ hưởng lợi của người dân từ các chương trình dân số.
Bên cạnh những kết quả đạt được, tỉnh Bắc Kạn hiện đang gặp nhiều khó khăn, thách thức trong công tác dân số như: Mức sinh có hiện tượng tăng cao so với giai đoạn trước; tình trạng sinh con thứ 3 trở lên tăng qua các năm, trong đó có cả đối tượng cán bộ, đảng viên, người giàu và người nghèo; tình trạng tảo hôn, kết hôn cận huyết thống vẫn đang tồn tại ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; cơ cấu dân số đang trong thời kỳ "cơ cấu dân số vàng" về mặt số lượng nhưng chất lượng dân số còn thấp; tốc độ già hóa dân số có xu hướng tăng ... Đây là những vấn đề cấp thiết, nếu không được giải quyết kịp thời sẽ gây ra những hệ lụy khó lường cả về quy mô dân số, cơ cấu dân số, phân bố dân số, chất lượng dân số.
Trong bối cảnh nền kinh tế - xã hội của tỉnh còn nhiều khó khăn, chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế. Mức sinh cao đã tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, giải quyết việc làm, chăm sóc sức khỏe nhân dân và phát triển giáo dục, gây khó khăn cho việc giải quyết đồng bộ mục tiêu dân số cả về quy mô, cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng dân số đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh theo tinh thần Nghị quyết số 21/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới.
Vì vậy, nhiệm vụ ưu tiên cần giải quyết trong thời gian tới là việc giảm sinh để đưa mức sinh của tỉnh Bắc Kạn từ mức sinh cao trở về mức sinh thay thế, góp phần ổn định quy mô dân số, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế, tác động tích cực đến việc nâng cao chất lượng dân số và nguồn nhân lực cho sự phát triển của tỉnh.
Nhằm cụ thể hóa Chương trình Điều chỉnh mức sinh phù hợp với các vùng, đối tượng đến năm 2030 trên cả nước theo Quyết định số 588/QĐ-TTg ngày 28/4/2020 của Thủ tướng Chính phủ, UBND tỉnh ban hành Chương trình Điều chỉnh mức sinh trên địa bàn tỉnh đến năm 2030 phấn đấu đạt và duy trì mức sinh thay thế, hướng tới ổn định quy mô dân số, giải quyết đồng bộ các mục tiêu về cơ cấu, phân bố và nâng cao chất lượng dân số, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phát triển kinh tế - xã hội bền vững của tỉnh.
Trong những năm qua, nhờ kiên trì đẩy mạnh kế hoạch hóa gia đình, mức sinh của tỉnh Bắc Kạn đã giảm rất nhiều, đã đạt mức sinh thay thế từ năm 2009. Sinh đẻ từ hành vi mang tính tự nhiên, bản năng đã chuyển sang hành vi có kế hoạch, văn minh; từ bị động sang chủ động; từ số lượng nhiều, chất lượng thấp sang số lượng ít, chất lượng cao; từ sinh đẻ ít trách nhiệm sang sinh đẻ có trách nhiệm đầy đủ hơn.
Đây thực sự là một trong những thành công nổi bật trong công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình của tỉnh. Kết quả này đã tác động mạnh mẽ, sâu rộng theo hướng tích cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xóa đói giảm nghèo, cải thiện sức khỏe phụ nữ và trẻ em, ngăn ngừa tử vong bà mẹ và trẻ sơ sinh, tình trạng suy dinh dưỡng giảm mạnh, tuổi thọ trung bình tăng.