Chức năng của mật theo quan niệm đông y
Muối mật nhũ tương hóa các chất béo, làm phản ứng xà phòng hóa thực hiện dễ dàng. Dưới tác dụng của men lipaza từ dịch tụy, các chất béo được phân giải, các axít béo - sản phẩm tiêu hóa của lipid - được phóng thích và được hấp thu vào cơ thể. Mật còn giúp cho cơ thể hấp thu các vitamin tan trong dầu và có tác dụng kìm khuẩn. Thông thường gan tiết 0,7 - 1 lít mật trong 24 giờ và nhu cầu muối mật vào khoảng 8g/ngày.
Theo quan niệm của Đông y, mật là đảm (đởm), một trong lục phủ. Đởm là phủ trung tính, liên quan mật thiết với can (gan) về chức năng sơ tiết, “khí dư của can tiết vào đởm, tụ lại mà thành tinh (dịch mật)”. Do chứa “tinh” này mà đởm trở thành phủ đặc biệt trong lục phủ.
Theo sách Tố vấn, tất cả 11 tạng phủ đều theo sự quyết đoán của đởm. Đởm có thể duy trì và bảo đảm sự vận hành bình thường của khí huyết, loại trừ những ảnh hưởng không tốt đến tinh thần.Chức năng này kém là nguyên nhân làm cho tinh thần bị thương tổn. Đởm khí suy nhược dần dần dẫn đến bệnh tật cho cơ thể.
Atisô có công dụng gì?
Atisô là loại cây lá gai lâu năm có nguồn gốc từ miền Nam châu Âu (quanh Địa Trung Hải) đã được người Cổ Hy Lạp và Cổ La Mã trồng để lấy hoa làm rau ăn.
Những cây atisô được trồng đầu tiên ở quanh Naples vào giữa thế kỷ 15. Nó được Catherine de Medici giới thiệu tới nước Pháp trong thế kỷ 16, sau đó, người Hà Lan mang nó đến Anh. Atisô tiếp tục được mang tới Mỹ trong thế kỷ 19 bởi những người đến nhập cư bang Louisiana bởi người Pháp và bang California bởi người Tây Ban Nha. Ngày nay, atisô được trồng chủ yếu ở Pháp, Ý và Tây Ban Nha, Mỹ và các nước Mỹ Latinh. Atisô du thực vào Việt Nam đầu thế kỷ 20, được trồng ở Sa Pa, Tam Đảo, nhiều nhất là ở Đà Lạt.
Hiện nay, người ta trồng atisô không những chỉ dùng lá bắc và đế hoa để ăn mà còn dùng làm thuốc.
Hoạt chất chính của atisô là cynarine (Acide 1- 3 dicaféin quinic). Ngoài ra còn có inulin, inulinaza, tanin, các muối hữu cơ của các kim loại kali, canxi, magiê, natri... Atisô có tác dụng hạ cholesterol và urê trong máu, tạo mật, tăng tiết mật, lợi tiểu, thường được làm thuốc thông mật, thông tiểu tiện, chữa các chứng bệnh về gan, thận.Tuy chất cynarine đã tổng hợp được nhưng người ta vẫn dùng chế phẩm từ cao lá atisô tươi.
Atisô là cây thảo lớn, cao 1 - 1,2m, có thể đến 2m.Thân cao, thẳng và cứng, có khía dọc, phủ lông trắng như bông.Lá to, dài, mọc so le; phiến lá xẻ thùy sâu và có răng không đều, mặt trên xanh lục mặt dưới có lông trắng, cuống lá to và ngắn.Cụm hoa hình đầu, to, mọc ở ngọn, màu đỏ tím hoặc tím lơ nhạt, lá bắc ngoài của cụm hoa rộng, dày và nhọn, đế cụm hoa nạc phủ đầy lông tơ, mang toàn hoa hình ống. Quả nhẵn bóng, màu nâu sẫm có mào lông trắng
Các hoạt chất chính trong cây atisô có tác dụng với gan, mật
Bộ phận dùng: cụm hoa và lá bắc có phần gốc nạc, thường được dùng làm rau ăn và làm thuốc. Lá hái lúc cây sắp ra hoa hoặc mới ra hoa, dùng làm thuốc.
Thu hái: gieo hạt tháng 10 - 11, bứng ra trồng tháng 1 - 2. Lúc cây sắp ra hoa, hái lấy lá, bẻ sống. Lá atisô thu hái vào năm thứ nhất của thời kỳ sinh trưởng hoặc vào cuối mùa hoa. Khi cây trổ hoa, hàm lượng hoạt chất giảm, vì vậy, thường hái lá trước khi cây ra hoa. Có tài liệu nêu là nên thu hái lá còn non vào lúc cây chưa ra hoa. Ở Đà Lạt, nhân dân thu hái lá vào thời kỳ trước tết Âm lịch 1 tháng.
Hoạt chất
Trước đây người ta cho rằng hoạt chất là cynarrin.Những nghiên cứu gần đây chứng minh rằng có nhiều hoạt chất khác nhau chứ không riêng gì cynarrin.
Trong atisô chứa 1 chất đắng có phản ứng acid gọi là cynarin (acid 1 - 4 dicafein quinic). Còn có inulin, tanin, các muối kim loại K (tỉ lệ rất cao), Ca, Mg, Natri.
Lá atisô chứa:
1. Acid hữu cơ bao gồm:
- Acid phenol: cynarin (acid 1 - 3 dicafeyl quinic) và các sản phẩm của sự thủy phân (acid cafeic, acid clorogenic, acid neoclorogenic).
- Acid alcol.
- Acid succinic.
2. Hợp chất flavonoid (dẫn chất của luteolin), bao gồm:
Cynarozid (luteolin - 7 - D glucpyranozid), scolymozid
(Luteolin - 7 - rutinozid - 3 - glucozid).
3. Thành phần khác: cynaopicrin là chất có vị đắng, thuộc nhóm guaianolid.
Dược điển Rumani VIII quy định dược liệu phải chứa trên 1% Polyphenol toàn phần và 0,2% hợp chất Flavonoid.
Theo R.Paris, hoạt chất (Polyphenol) tập trung ở lá, có nhiều nhất ở phiến lá (7,2%) rồi đến cụm hoa, rễ, cuống lá.
Lá chứa nhiều hoạt chất nhất: 1,23% polyphenol, clorogenic acid 4%, hợp chất Flavonoid (đặc biệt là rutin), sau đó đến thân (0,75%), rễ (0,54%). Dẫn chất caffeic như clonogenic acid, neoclorogenic acid, cyptoclorogenic acid, cynarin. Sesquiterpen lacton: cynarpicrin, dehydrocynaropicrin, grossheimin, cynatriol.
Lá tươi hoặc khô sắc hoặc nấu thành cao chữa bệnh về gan
Hoạt chất trong phiến lá cao gấp 10 lần trong cuống lá.
Lá non chứa nhiều hoạt chất (0,84%) hơn lá mọc thành hình hoa thị ở mặt đất (0,38). Nếu sấy ở nhiệt độ cao, lá mau khô nhưng lại mau mất hoạt chất.Ở nhiệt độ thấp, việc làm khô sẽ lâu hơn.Lá cần được ổn định trước rồi mới chuyển thành dạng bào chế. Ngọn có hoa chứa inulin, protein (3,6%), dầu béo (0,1%), cacbohydrat (16%), chất vô cơ (1,8%0, Ca (0,12%), P (0,10%), Fe (2,3mg/100g), Caroten (60 đơn vị/100g, tính ra vitamin A).
Thân và lá còn chứa muối hữu cơ của các kim loại K, Ca, Mg, Na. Hàm lượng Kali rất cao.
Hoa atisô ăn rất tốt cho sức khỏe, cung cấp khoảng 9,3% carbohydrate, 1,5% chất xơ, rất ít chất béo và protein. Năng lượng cung cấp rất thấp, chỉ khoảng 40 đến 50 kcal nhưng lại rất giàu vitamin và chất khoáng như kali, phốt pho, canxi, natri, lưu huỳnh và magiê.
Hoa đặc biệt thích hợp cho người bị đái tháo đường do rất ít đường. Hoa cũng giúp thải bớt chất độc cho những người mất cân bằng do uống nhiều rượu. Mặc dù hoa atisô không có tác dụng tái tạo tế bào gan (do không chứa cynaropicrin) nhưng cũng có tác dụng chống ngộ độc gan, chống oxy hóa, lợi niệu và lợi mật.Một nghiên cứu gần đây cho thấy tác dụng chống oxy hóa của atisô không hề bị giảm đi khi đun nóng.
Rễ: hầu như không có dẫn chất của acid caffeic, bao gồm cả acid clorogenic và sesquiterpen lacton. Rễ chỉ để thông tiểu chứ không có tác dụng tăng tiết mật (theo Herbal Medicine, 1999).
Các thử nghiệm in vivo (trên động vật và người) cho thấy atisô có tác dụng kích thích gan mật, chống sỏi mật, lợi niệu, chống ngộ độc gan, hạ lipid máu do ức chế enzyme chuyển hóa HMG CoA reductase (góp phần chống béo phì), gia tăng chuyển hóa và lợi niệu. Đối với tác dụng chống độc gan, sự hiện diện đồng thời của cynarin, muối khoáng và sesquiterpen lactone là cần thiết.
Các chất này giúp kích thích tái tạo tế bào gan.Tuy atisô gia tăng bài tiết mật giúp tiêu hóa nhưng không được sử dụng trong trường hợp tắc nghẽn ống dẫn mật. Như vậy những người bị viêm gan siêu vi, ngộ độc gan do dùng nhiều thuốc có hại cho gan, mỡ máu cao, tiêu hóa kém do thiếu acid mật nên dùng atisô.
Theo đông y, lá cây atisô có vị đắng, có tác dụng lợi tiểu và được dùng đề điều trị bệnh phù và thấp khớp. Ngoài việc dùng đế cụm hoa và lá để ăn, atisô còn được dùng làm thuốc thông tiểu tiện, thông mật, chữa các bệnh suy gan thận, viêm thận cấp và mạn tính, sưng khớp xương. Người ta còn dùng thân và rễ atisô thái mỏng, phơi khô, công dụng như lá. Bông atisô khi nấu chín có tác dụng bổ dưỡng tăng lực, kích thích tiêu hóa làm ngon miệng, lợi gan mật, trợ tim, lợi tiểu, chống độc, tăng tiết sữa cho sản phụ (khi hầm với chân giò).
Bộ phận dùng là lá tươi hoặc khô, bông atisô: đem sắc hoặc nấu cao lỏng, với liều 2 - 10g lá khô một ngày, có khi chế thành cao mềm hay cao khô đề bào chế thuốc viên, thuốc tiêm dưới da hay tĩnh mạch. Có thể chế thành dạng cao lỏng đặc biệt dùng dưới hình thức giọt.
Ứng dụng điều trị của atisô vào đời sống
Điều trị bệnh phù và thấp khớp: Lá tươi hoặc khô sắc hoặc nấu thành cao chữa bệnh về gan (gan viêm mạn, da vàng), thận viêm cấp và mạn, sưng khớp xương. Thuốc có tác dụng nhuận trường và lọc máu nhẹ đối với trẻ em.
Dùng trong các trường hợp đau gan, đau dạ dày, ăn uống không tiêu, sản phụ ít sữa, đái tháo đường thống phong, thấp khớp, suy nhược cơ thể: Hoa cây atisô sắc nước uống dùng tươi hoặc khô (10 - 20g nước sắc nếu dùng tươi, 5 - 10g nếu dùng khô)
Lưu ý: nếu ăn và uống quá mức sẽ có những biến chứng phụ do atisô gây ra như hại gan, co thắt cơ trơn của hệ tiêu hóa, trướng bụng, cơ thể mệt mỏi.
Liều dùng: một ngày chỉ nên dùng10 - 20g sắc với nước nếu dùng tươi, 5 - 10g nếu dùng khô. Với loại trà đóng gói cũng chỉ nên uống 2 - 3 túi mỗi ngày.