Áp-xe gan do amíp và biến chứng hay gặp

10-11-2014 08:00 | Y học 360
google news

SKĐS - Áp-xe gan do amíp là do thể hoạt động gây bệnh của amíp gây ra, thường gặp sau bệnh lỵ amíp hoặc lỵ mạn tính.

Áp-xe gan do amíp là do thể hoạt động gây bệnh của amíp gây ra, thường gặp sau bệnh lỵ amíp hoặc lỵ mạn tính.

Vì sao amíp gây áp-xe gan?

Trong điều kiện bình thường, amíp sống hội sinh ở đại tràng. Khi sức đề kháng của cơ thể giảm và thành ruột bị tổn thương, men của amíp tiết ra gây ra các vết loét ở niêm mạc và tạo nên các ổ áp-xe nhỏ ở thành đại tràng, làm tổn thương thành mạch, amíp chui vào các mao tĩnh mạch vào tĩnh mạch mạc treo tràng trên rồi theo hệ thống tĩnh mạch cửa về gan. Do lưu lượng máu của tĩnh mạch cửa phần lớn đổ vào gan phải nên trên 80% áp-xe gan do amíp gặp ở gan phải. Ngoài ra, amíp có thể lên gan theo đường bạch mạch hay di chuyển trực tiếp (amíp chui ra ngoài thành ruột vào ổ bụng rồi bị hút lên vòm gan và chui qua vỏ Glisson vào tổ chức gan.

Khi xâm nhập vào gan, amíp dừng lại ở tĩnh mạch khoảng cửa và sinh sản ở đây làm tắc các nhánh của tĩnh mạch này, làm cho gan bị viêm cương tụ, sung huyết lan tỏa dẫn đến gan bị phù nề tổ chức và hoại tử từng đám. Các đám hoại tử nhỏ tập hợp lại thành đám hoại tử lớn, thường gặp một ổ lớn và ở gan phải. Nếu chọc hút ở giai đoạn này thường thấy một chất quánh dính màu nâu đỏ, soi trên kính hiển vi thấy chủ yếu là các tế bào gan hoại tử, lẫn hồng cầu, có thể thấy amíp và không có vi khuẩn. Các chất quánh dính này tiếp tục bị các men của amíp phân hủy làm loãng dần ra và tổ chức gan xung quanh tiếp tục bị viêm hoại tử làm ổ áp-xe to ra. Nếu được điều trị kịp thời thì quá trình viêm hoại tử dừng lại và chất dịch đó có thể sẽ được tiêu đi.

Triệu chứng của áp-xe gan do amip khá điển hình. Khởi đầu của bệnh bao giờ cũng có sốt, thường sốt cao 39 - 40oC, có thể sốt nóng, vã mồ hôi hoặc có cơn rét run nên có khi nhầm với sốt rét. Đau vùng gan là triệu chứng xuất hiện sớm. Đau vùng gan lan xuyên lên vùng bả vai phải và ra phía sau lưng, đau tăng lên khi bệnh nhân ho, hắt hơi hay nằm nghiêng sang phải, bệnh nhân thường thở nông và thở bằng ngực. Gan to cả hai chiều. Dấu hiệu rung gan ( ). Dấu hiệu Ludlow ( ) (ấn kẽ liên sườn IX đường nách trước, giữa đau chói). Khi ổ áp-xe nằm ở nông sát bề mặt gan có thể thấy da ở vùng thành ngực tương ứng bị phù nề và các tĩnh mạch dưới da nổi rõ. Có hội chứng nhiễm khuẩn, môi khô lưỡi bẩn, mệt mỏi, kém ăn và gầy sút cân do tình trạng nhiễm độc bởi sự hủy hoại của tế bào gan và các độc tố của amíp. Trong giai đoạn sớm có thể thấy da và niêm mạc phớt vàng, nước tiểu vàng do tế bào gan bị hủy hoại. Tình trạng da và niêm mạc phớt vàng qua đi nhanh chóng.

Biến chứng thường gặp là vỡ ổ áp-xe. Nếu vỡ vào màng phổi sẽ gây khó thở, đau lan lên ngực phải do tràn mủ màng phổi. Vỡ vào phổi - phế quản gây ho nhiều, khạc ra mủ màu nâu. Vỡ vào màng tim gây hội chứng chèn ép tim, thường diễn biến nặng. Vỡ vào ổ phúc mạc gây ra viêm phúc mạc. Vỡ vào dạ dày, ruột sẽ nôn ra mủ màu nâu hoặc đi ngoài ra mủ. Vỡ vào túi mật hay đường mật. Vỡ vào vùng hố thận phải gây viêm tấy vùng quanh thận. Vỡ ra ngoài thành ngực gây ra amíp da, hoại tử da lan rộng, khó điều trị.

Nếu chẩn đoán sớm ở giai đoạn viêm gan và được điều trị bằng thuốc đặc hiệu diệt amíp có thể khỏi. Ở giai đoạn đã hình thành ổ mủ chưa có biến chứng được chọc hút mủ kịp thời dưới hướng dẫn của siêu âm kết hợp với thuốc đặc hiệu diệt amíp thường cho kết quả tốt.

Lời khuyên của thầy thuốc

Áp-xe gan là căn bệnh nguy hiểm nên việc phòng ngừa bệnh là việc làm rất cần thiết đối với mỗi chúng ta. Bệnh thường do vi khuẩn xâm nhập vào theo đường ruột nên việc phòng bệnh nói chung là vệ sinh môi trường, vệ sinh hoàn cảnh, vệ sinh an toàn thực phẩm thật tốt. Khi nghi ngờ bị áp-xe gan cần đi khám bệnh càng sớm càng tốt để được xác định một cách chắc chắn và có hướng xử lý kịp thời, tránh để xảy ra biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng đến tính mạng. 

BS. Nguyễn Thọ

 

 


Ý kiến của bạn