Tin nhà văn Anh Đức từ trần đột ngột khiến dư luận bàng hoàng và tiếc thương sâu sắc. Vẫn biết từ sau lần đột quỵ năm 2004, ông không còn khỏe và làm việc được nữa, nhưng mấy năm gần đây, cuộc sống ông tạm ổn, gặp người quen ông còn ham chuyện lắm, đặc biệt là những chuyện thuộc về quá khứ, cả quá khứ xa từ thuở chiến khu. Nhưng lần này thì ông không qua khỏi. 18 giờ chiều còn ăn bữa cơm tối ngon lành mà 21 giờ 15 phút đêm ông đã vĩnh viễn đi vào cõi vĩnh hằng, bảo không ngỡ ngàng, bàng hoàng và tiếc thương sao được, nhất là với những người ruột thịt và những ai thân thiết, gần gũi với ông?

Nhà văn Anh Đức (ảnh chụp năm 2013).
Từ đầu những năm 50 của thế kỷ trước, khi mới chưa đầy hai mươi tuổi, ông đã được chú ý với tập truyện đầu tay được Giải văn nghệ Cửu Long của Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ. Rồi đầu những năm 60, ông thành công lớn với các truyện ngắn Con cá song, giải Nhất cuộc thi truyện ngắn Tạp chí Văn nghệ của Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và truyện dài Một truyện chép ở bênh viện viết về cuộc đấu tranh ở miền Nam những tháng năm đen tối sau Hiệp định Giơnevơ, khi chuyển thể sang điện ảnh mang tên Chị Tư Hậu đã nâng ông lên thành cây bút trẻ nổi bật của văn đàn. Rồi những năm 1960-1970, trong gian lao và khốc liệt của kháng chiến chống Mỹ, ông đã cho ra đời nhiều bút ký, truyện ngắn xuất sắc, sau in thành tập Bức thư Cà Mau, Giấc mơ ông của ông lão vườn chim... và các tiểu thuyết Hòn Đất, Đứa con của đất đã góp phần quan trọng khẳng định thành tựu của văn học kháng chiến nơi tuyến đầu khói lửa. Sau ngày giải phóng, thống nhất đất nước, ông tiếp tục có nhiều truyện ngắn đặc sắc, sau in trong tập Miền sóng vỗ đặt ra nhiều vấn đề về công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng đất nước trong hòa bình. Không chỉ thành công trong sáng tác, ông còn có nhiều trang hồi ức chân thực và cảm động như Con đường chúng tôi đã đi qua, Từ những cánh rừng... hay những bút ký - chân dung rất sinh động và độc đáo như Cánh rừng xưa bi tráng (về con người và sự hy sinh của Chủ tịch Hội Văn nghệ giải phóng Trần Hữu Trang) hay Thương nhớ Lê Anh Xuân, Trong ngọn cỏ và hạt sương (về nhà thơ Chế Lan Viên) khẳng định giá trị cao đẹp của văn học cách mạng trong dòng chảy văn học dân tộc, nhắc nhớ về những ngày kháng chiến, gợi mở những suy nghĩ về nghề và trách nhiệm của nhà văn - chiến sĩ trên mặt trận văn hóa văn nghệ. Những kiến giải của ông vững chắc về quan điểm và giàu sức gợi về lao động văn chương. Tác phẩm của ông có ảnh hưởng sâu rộng trong công chúng, bởi vậy, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật dành cho những tác phẩm tiêu biểu của ông được sự đồng thuận cao của Hội đồng thẩm định và dư luận xã hội.

Nhà văn Anh Đức tại Chiến khu.
Có được những thành tựu đó, cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông luôn luôn gắn bó với đời sống cách mạng và kháng chiến. Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đất nước chiến tranh, Anh Đức “vào đời” khá sớm. Mười ba tuổi, đang học dở dang, ông đã vào khu tham gia kháng chiến. Rồi với năng khiếu bẩm sinh và tình yêu văn chương, ông trở thành người viết báo, viết văn. Hết kháng chiến chống Pháp, đất nước mới chỉ một nửa được hòa bình, miền Nam vẫn chưa im tiếng súng. Tập kết ra Bắc ít năm, ông lại xin được trở lại quê nhà để trực tiếp cùng bà con cô bác và đồng chí đồng bào chiến đấu; từ đó có thêm vốn sống tiếp tục sáng tác và xây dựng phong trào văn nghệ giải phóng. Chính cuộc sống ác liệt của miền Nam kháng chiến đã trui rèn phẩm chất kiên cường, kiên định trong lý tưởng, mở ra những chân trời cho cảm hứng của ông. Anh Đức là người khéo kết hợp nhuần nhuyễn giữa thực tiễn khốc liệt của chiến tranh với giọng văn trữ tình giàu suy tưởng, thông qua ngôn ngữ chọn lọc của vùng đất Nam Bộ, tạo ra sức cuốn hút người đọc. Phong cách riêng biệt này được sử dụng trong thể loại phi hư cấu như bút ký, ký sự hay trong thể loại hư cấu như tiểu thuyết, vẫn tạo được sự hợp lý, hài hòa.
Là tài năng văn học, nhưng ông cũng là người quản lý có năng lực và giàu kinh nghiệm. Nhiều năm trong kháng chiến chống Mỹ, ông phụ trách ngành văn của Hội Văn nghệ giải phóng kiêm Tổng biên tập Tạp chí của Hội. Sau ngày miền Nam giải phóng, đất nước thống nhất, ông tham gia nhiều khóa Ban Thường vụ, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam cũng như đảm nhiệm vai trò lãnh đạo của Liên hiệp Các hội văn học nghệ thuật và Hội Nhà văn ở TP. Hồ Chí Minh. Là con người kiên định trên những vấn đề quan điểm, tận tụy và sáng tạo trong công việc, điềm tĩnh trong ứng xử, ông có nhiều đóng góp tích cực cho sự phát triển và xây dựng đội ngũ và xây dựng nền văn học nghệ thuật.
Tiễn đưa ông hôm nay, tôi lại nhớ một kỷ niệm tại căn cứ văn nghệ rừng R vào một sáng mùa mưa năm 1973, với tư cách Tổng biên tập chủ trì buổi họp lên kế hoạch cho Tạp chí Văn nghệ giải phóng số mới, ông tâm tình với mấy anh chị em nhà văn trong tòa soạn: Lê Văn Thảo, Trang Thế Hy, Diệp Minh Tuyền, Nguyễn Chí Hiếu, chị Trần Phúc Mộng Loan (vợ ông) và tôi: “Tụi mình ráng viết và ráng tập hợp, giới thiệu sao cho được nhiều trang văn thơ xứng đáng với bà con cô bác, với các chiến sĩ đang sống, chiến đấu vô cùng cực khổ và vô cùng anh hùng”.
Khát vọng ấy, nhìn từ hôm nay, tôi vẫn thấy rất ý nghĩa.
Lê Quang Trang