Theo thống kê, mỗi năm nước ta có khoảng hơn 15.230 phụ nữ mới mắc và hơn 6.100 người tử vong do ung thư vú. Ở nam giới, ung thư vú hiếm khoảng 1% các trường hợp ung thư. Vì vậy việc hiểu rõ các giai đoạn của căn bệnh này là vô cùng cần thiết.
Càng nhiều yếu tố nguy cơ, khả năng mắc ung thư vú càng tăng
Nhiều nghiên cứu cho rằng, nếu phụ nữ có một trong các yếu tố nguy cơ có nhiều khả năng mắc ung thư vú. Nhưng nhiều người có một hay thậm chí nhiều yếu tố nguy cơ gây ung thư vú không có nghĩa là chắc chắn mắc phải căn bệnh này. Vì vẫn có một tỷ lệ phụ nữ bị ung thư vú mà không có yếu tố nguy cơ nào.
Dưới đây là các yếu tố có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc ung thư vú:
Trong các yếu tố nguy cơ mắc bệnh thì nổi bật là tiền sử gia đình có người mắc ung thư vú, đặc biệt có từ 2 người mắc trở lên ở lứa tuổi trẻ. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy sự liên quan giữa đột biến gen BRCA1 và BRCA2 với ung thư vú, ung thư buồng trứng và một số ung thư khác.
Một số yếu tố khác như: Phụ nữ độc thân, không sinh con, không cho con bú, sinh con đầu lòng muộn, có kinh lần đầu sớm, mãn kinh muộn. Với phụ nữ thừa cân béo phì, chế độ ăn giàu chất béo, sử dụng rượu cũng góp phần tăng nguy cơ bị bệnh. Viêm vú trong khi sinh đẻ và một số bệnh vú lành tính…là một trong các yếu tố tăng nguy cơ mắc ung thư vú. Tuổi cũng là yếu tố nguy cơ, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, yếu tố càng cao, nguy cơ mắc bệnh càng tăng. Tuy nhiên, bệnh cũng có thể xuất hiện ở những người rất trẻ.
Các giai đoạn ung thư vú
Ung thư vú là một trong những căn bệnh đặc biệt nguy hiểm đối với chị em phụ nữ nhưng không giống các loại ung thư khác vì có thể chữa được nếu phát hiện sớm. Theo thống kê, có khoảng 80% bệnh nhân được chữa khỏi hoàn toàn nếu phát hiện bệnh ở những giai đoạn sớm.
Ở giai đoạn sớm được gọi là bệnh ung thư không xâm lấn hay còn gọi là bệnh ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ. Khi đó các tế bào ung thư vú mới chỉ xuất hiện trong các ống dẫn sữa.
Ở giai đoạn đầu, bệnh ung thư vú thường không có biểu hiện gì. Tuy nhiên, nếu khối u vú phát triển, bệnh nhân có thể cảm nhận được các biểu hiện như: Vú bị sưng, thay đổi hình dạng; kích ứng da vùng vú hoặc vùng dưới cánh tay; có sự xuất hiện khối u cứng ở vú; quầng vú hoặc núm vú có sự thay đổi màu sắc hay các thay đổi khác; vú có dịch, bị thụt vào trong hoặc có cảm giác đau.
Ung thư vú được chia làm 4 giai đoạn:
Giai đoạn đầu của ung thư vú: Ung thư vú ở giai đoạn đầu các tế bào ung thư vú không xâm lấn được bác sĩ phát hiện ra trong các ống dẫn sữa. Thời điểm là ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ.
1. Giai đoạn 1: Giai đoạn này ung thư vú có kích thước nhỏ từ 2cm và các hạch bạch huyết chưa bị ảnh hưởng. Nhưng không phát hiện được thì khối u tiến triển sẽ xuất hiện khối u ở vú và khối u tại các hạch bạch huyết ở nách.
2. Giai đoạn 2: Giai đoạn này ung thư vú tiến triển các khối u có kích thước lớn hơn và có thể chưa lây lan sang các hạch bạch huyết hoặc sang các hạch nách. Giai đoạn đầu khối u xuất hiện chưa đến 4 hạch bạch huyết chưa lan tới bộ phận khác. Ở cuối giai đoạn 2 hay còn gọi là 2B khối u tiến triển có kích thước to hơn và sẽ tìm thấy các cụm tế bào ung thư trong hạch bạch huyết, ở nách hoặc gần xương ức.
3. Giai đoạn 3: Nếu phát hiện bệnh ung thư vú ở giai đoạn 3, thì các khối u trong cơ thể đã lan rộng có thể từ 4 – 9 hạch bạch huyết ở nách hoặc phù các hạch bạch huyết bên trong vú.
4. Giai đoạn 4: Giai đoạn này được xem là giai đoạn cuối của bệnh ung thư. Khi đó, các tế bào ung thư đã lan rộng và di căn đến nhiều cơ quan trong cơ thể người bệnh. Thông thường khi mắc ung thư vú sẽ di căn đến xương, não, phổi và gan.
Tiên lượng ung thư vú và tầm soát như thế nào?
Theo các nghiên cứu, các yếu tố tiên lượng quan trọng của ung thư vú phụ thuộc vào kích thước, số lượng hạch di căn, tuổi, thể trạng người bệnh... Hiện nay, theo thống kê tỷ lệ sống của bệnh nhân ung thư vú ngày càng được cải thiện. Vì vậy, việc phát hiện sớm là vô cùng quan trọng.
Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ khuyến cáo, phụ nữ bắt đầu từ độ tuổi 40 cần chụp nhũ ảnh hằng năm và duy trì liên tục khi sức khỏe vẫn còn tốt. Thăm khám vú 3 năm một lần ở phụ nữ có độ tuổi 20 và 30 và mỗi năm một lần ở phụ nữ có độ tuổi 40 hoặc lớn hơn. Phụ nữ nên biết cách nhìn và cách sờ nắn vú bình thường như thế nào, và thông báo ngay với bác sĩ về bất kỳ sự thay đổi nào của vú. Phụ nữ bắt đầu ở độ tuổi 20 cần biết cách tự khám vú.
Đối với một vài phụ nữ có nguy cơ như tiền sử gia đình có người ung thư vú, cần tầm soát sớm hơn và nên được tầm soát thêm bằng MRI ngoài việc chụp nhũ ảnh.
Video bạn có thể quan tâm:
Những nguyên nhân dẫn tới suy nhược thần kinh