1. Acid uric là gì?
Acid uric là sản phẩm chuyển hóa tự nhiên trong cơ thể mỗi người. Chất này có nguồn gốc từ quá trình dị hóa adenine và guanidine của các acid nucleic, hay là sản phẩm chuyển hóa của các chất có nhân purin. Nguồn chính tạo ra acid uric gồm cả nguồn nội sinh và ngoại sinh. Nguồn ngoại sinh là từ thức ăn hàng ngày cung cấp cho cơ thể chứa purin (khoảng 100- 200mg/ ngày).
Các thực phẩm đồ ăn uống có chứa nhân purin như nội tạng động vật, hải sản, thịt đỏ (thịt chó, thịt trâu, bò…), bia, rượu, … Nguồn nội sinh do quá trình chuyển hóa acid nucleic trong cơ thể (khoảng 600mg/ngày), quá trình này chủ yếu diễn ta tại gan, một phần nhỏ tại niêm mạc ruột.
Phần lớn acid uric trong máu tồn tại ở dạng tự do, chỉ khoảng 4% gắn với protein huyết thanh. Đối với nam, nồng độ acid uric trong máu trung bình là 210 - 420 umol/L, đối với nữ là 150 - 350 umol/L. Khi kết quả xét nghiệm máu cho thấy nồng độ acid uric trong máu vượt mức nói trên được coi là tăng acid uric2. Nguyên nhân tăng acid uric máu
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự tăng nồng độ acid uric trong máu, điển hình như tăng sản xuất acid uric bao gồm tăng acid uric máu tiên phát (30% bệnh nhân gút thuộc loại vô căn); do bị phá hủy tổ chức; do gia tăng chuyển hóa tế bào như u lympho, ung thư; do thiếu máu bởi tan máu; bệnh sốt rét hoặc do thiếu G6PD; ăn nhiều thực phẩm chứa nhiều purin như nội tạng, thịt đỏ, cá, bia,...; người béo phì; người thường xuyên nhịn đói, ăn kiêng, tập thể dục quá sức…Tăng acid uric máu còn do bị giảm đào thải acid uric bởi các nguyên nhân như bị suy thận, nghiện rượu, sử dụng thuốc lợi tiểu, sử dụng các thuốc gây giảm tải acid uric qua nước tiểu ( aspirin…), bệnh nhiễm toan, người bệnh suy giáp, người bị ngộ độc chì hoặc do di truyền hoặc có thể do nhiễm độc thai nghén và tiền sản giật ở phụ nữ có thai,
3. Tăng acid uric máu có nguy hiểm không?
Các nhà chuyên khoa cho rằng sự tiến triển của bệnh gút cũng như hạt tophi trong bệnh gút có thể liên quan đến một số yếu tố như giới tính (nam giới dễ mắc bệnh hơn nữ), độ tuổi trung bình của bệnh nhân nam thường là 30 – 45 tuổi, trong khi nữ là 55 – 70 tuổi, đặc biệt là người bị tăng acid uric máu thường có liên quan đến dùng nhiều rượu, bia, chất uống có cồn cũng như các loại thực phẩm chứa nhiều purin.
Vì vậy, người được kết luận là mắc bệnh gút là khi có đủ hai tiêu chuẩn chính, đó là có chỉ số nồng độ acid uric trong máu tăng so với chỉ số bình thường và kèm theo phải có sự lắng đọng acid uric gây ra những tổn thương tại khớp gây viêm (sưng, nóng, đỏ đau...). Để chẩn đoán chính xác có bị bệnh gút hay không người nghi ngờ mắc gút cần được khám chuyên khoa khớp để xác định triệu chứng lâm sàng có hiện tượng viêm khớp (sưng, nóng, đỏ, đau) và không đối xứng hay không… đồng thời thực hiện các xét nghiệm và cận lâm sàng chuyên sâu về xương khớp để kết luận đúng dựa trên các tiêu chuẩn sẵn có.
Để không tăng hoặc hạn chế tăng acid uric máu nên làm gì?
Cần hạn chế ăn thực phẩm chứa nhiều chất đạm như hải sản (mực, cua, tôm), các loại thịt đỏ (bò, trâu, dê), nội tạng như phổi, gan. Cần hạn chế uống rượu, bia và các đồ uống có cồn. Hàng ngày nên chú ý ăn nhiều rau rau xanh, củ quả, trái cây. Uống đủ lượng nước cần thiết hàng ngày (khoảng 1 - 1.5 lít nước/ ngày) nhằm hạn chế sự kết tủa của muối urat và tăng khả năng lọc thải acid uric ở thận.
Cần duy trì cân nặng nhằm giảm áp lực lên các khớp.
Duy trì thói quen sinh hoạt lành mạnh như không thức khuya, tránh căng thẳng, vệ sinh cơ thể giúp lưu thông khí huyết. Vận động cơ thể đều dặn hàng ngày như tập thể dục buổi sáng, đi bộ…
Những người có nghi ngờ tăng hoặc đã bị tăng acid uric máu cần được xét nghiệm máu để kiểm tra nồng độ acid uric đi kèm với kiểm tra sức khỏe định kỳ. Tích cực điều trị các bệnh nền (nếu có) theo chỉ định của bác sĩ khám bệnh cho mình.