Thiếu acid folic có thể gây ra các bệnh của hệ tạo máu, bệnh thần kinh (sa sút trí tuệ, đau đầu Migrain, giảm thính lực tuổi già) và rối loạn tâm thần (trầm cảm, rối loạn lo âu, tâm thần phân liệt), đặc biệt là nhồi máu cơ tim.
Vai trò của acid folic
Acid folic được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1930 bởi Wills và Mehta, gọi là yếu tố Wills. Acid folic được đặt tên vào năm 1941 khi phân lập từ rau bina, được chứng minh là một yếu tố tăng trưởng cho vi khuẩn Streptococcus lactis. Nó có vai trò quan trọng ở nhiều mức khác nhau. Vitamin B giúp cơ thể chuyển hóa glucid, lipid và protein. Chúng còn giúp hoàn chỉnh chức năng hệ thần kinh, đặc biệt là phát triển ống thần kinh trong giai đoạn phát triển bào thai.
Acid folic giúp giảm huyết áp, dự phòng đột quỵ não và nhồi máu cơ tim
Các chuyên khoa về tim mạch và đột quỵ ở Mỹ đã đưa xét nghiệm acid folic máu vào để đánh giá yếu tố nguy cơ, từ đó đưa ra biện pháp điều trị dự phòng hiệu quả. Acid folic có vai trò là coenzym của men methionin sythase, men này giúp chuyển hóa homocystein sang methionin ở gan. Thiếu acid foilc, vitamin B12 và vitamin B6 sẽ là tác nhân gây tăng nồng độ homocystein máu. Homocystein máu tăng làm tổn thương nội mạc động mạch, cùng với các gốc tự do châm ngòi cho quá trình vữa xơ động mạch, hậu quả là hình thành những mảng vữa xơ động mạch và gây xơ cứng động mạch. Bệnh tiến triển dần gây tăng huyết áp, thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim, đột quỵ não và tắc các động mạch ngoại vi. Các nghiên cứu đã chứng minh rằng, tăng nồng độ acid folic làm giảm homocystein trong máu, từ đó có thể giảm được tiến trình vữa xơ động mạch, qua đó có thể góp phần hạn chế và ngăn chặn được các bệnh tim mạch và đột quỵ não. Đây là một tin vui lớn cho người có tuổi, đặc biệt người bệnh tăng huyết áp, đột quỵ não và thiếu máu cơ tim cục bộ.
Một số thực phẩm giàu acid folic.
Vai trò acid folic trong bệnh thần kinh, miễn dịch, ung thư và tạo máu
Không những vậy, dùng acid folic không có biến chứng chảy máu tiêu hóa như các thuốc chống kết tập tiểu cầu (aspirin, clopidogrel, cilostazol...), không đau đầu và các tác dụng khác như tăng tuần hoàn nên nâng đỡ thể trạng và sức khỏe chung của cơ thể.
Acid folic đóng vai trò cốt yếu trong phát triển chức năng não và đóng vai trò rất quan trọng trong phát triển cảm xúc và tâm thần. Bởi vì folate tham gia quá trình tổng hợp nhiều chất dẫn truyền thần kinh như: dopamin, adrenalin, noradrenalin.
Acid folic chống giảm trí nhớ (Alzheimer), nhiều nghiên cứu khuyến cáo để giảm nguy cơ mắc bệnh Alzheimer ở những người có tuổi nên sử dụng khoảng 0,4mg acid folic/ngày. Acid folic làm tăng thính lực, kết quả của chương trình bổ sung acid folic vào bột mỳ của Mỹ và Hà Lan cho thấy ở hai quốc gia này, tỷ lệ người suy giảm thính lực do tuổi tác ít hơn hẳn so với các quốc gia khác.
Ngoài ra, acid folic rất cần thiết cho sự tạo thành tế bào hồng cầu. Tạo ra những tế bào máu, thiếu acid folic dẫn đến thiếu máu hồng cầu to. Thiếu acid folic trong khẩu phần ăn của người mẹ mang thai sẽ ảnh hưởng quá trình tạo máu và phát triển thai nhi, gây ra những nguy cơ cho trẻ sơ sinh như thiếu cân, khiếm khuyết ống thần kinh (nứt ống thần kinh, thiếu một phần não, hở cột sống).
Acid folic còn tham gia quá trình tổng hợp acid nucleic (AND, ARN) tạo nên gene. Trong methyl hóa acid nucleotide, điều này dường như quan trọng trong ngăn ngừa ung thư. Acid folic giảm nguy cơ ung thư kết tràng, nghiên cứu của Đại học Harvard (Mỹ) cho thấy, acid folic có khả năng giảm bớt ung thư kết tràng. Folate có thể ngăn ngừa ung thư, mức hấp thu folate càng cao, nguy cơ phát triển ung thư buồng trứng càng thấp. Thiếu folate có thể gây ung thư vú hoặc ung thư ruột.
Folate có thể trị bệnh hen suyễn, folate có thể giúp điều hòa đáp ứng miễn dịch của cơ thể đối với tác nhân gây dị ứng, do đó có thể làm giảm triệu chứng của hen và dị ứng.
Những thực phẩm giàu acid folic
Nguồn gốc tốt nhất là: gan (gan bê, pate gan ngỗng, vịt...), trứng, nấm. Thiếu B9 sẽ đi kèm với thiếu vitamin C hoặc sắt, kẽm. Khi đó giảm tính sinh học có sẵn của B9. Nguồn gốc động vật: thịt, bò, lợn, bê, gà, trứng, gan (bò, heo, bê). Nguồn cung cấp tự nhiên của vitamin B9: nấm, cà rốt, khoai tây, sữa mẹ, sữa bò tươi, sữa bột, mầm lúa mỳ, đậu haricot, nấm men. Tuy nhiên, do sự phát triển kinh tế thị trường chưa được kiểm soát tốt ở Việt Nam, nhiều người vì lợi nhuận sẵn sàng làm ra những sản phẩm chưa đảm bảo chất lượng, ảnh hưởng không nhỏ đến sức khỏe. Nguồn thực phẩm được nuôi trồng không đúng quy trình, cùng với vấn đề an toàn thực phẩm đang là vấn đề nhức nhồi của toàn xã hội, do vậy chất lượng thực phẩm chưa đủ hàm lượng vitamin, các chất dinh dưỡng và đặc biệt là acid folic.
Lượng acid folic được khuyên cung cấp: Trẻ còn bú: 50μg/ngày; Trẻ từ 1-3 tuổi: 100μg/ngày; Trẻ từ 4-12 tuổi: 200μg/ngày; Thanh niên từ 13 đến 19 tuổi: 300μg/ngày; Người trưởng thành: 400μg/ngày; Phụ nữ có thai hay cho con bú: 600μg/ngày.