1. Các yếu tố nguy cơ ung thư vú
Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở phụ nữ trên toàn thế giới và là nguyên nhân tử vong đứng hàng thứ 5. Có hai loại ung thư vú phổ biến nhất là loại ống (tế bào ung thư phát triển từ ống dẫn sữa) và loại tiểu thùy (tế bào ung thư phát triển từ tiểu thùy).
Ung thư vú là một bệnh lý phức tạp do nhiều yếu tố gây ra. Các yếu tố nguy cơ ung thư vú bao gồm:
Tuổi: Phụ nữ dưới 30 tuổi rất hiếm khi bị ung thư vú. Tuổi càng tăng, nguy cơ mắc cũng tăng dần.
Gia đình: Một phụ nữ có mẹ hoặc chị em gái bị ung thư sẽ có nguy cơ bị bệnh này cao gấp 1,5-3 lần so với những người có gia đình không ai bị ung thư vú.
Gene gây ung thư vú: Hai gene được biết là BRCA1 và BRCA2 (viết tắt của từ BReast CAncer gene). Các gene này ức chế sinh ung thư. Nếu phụ nữ bị đột biến một trong hai gene này sẽ có khả năng bị ung thư vú. Các gene này nằm trên nhiễm sắc thể thường nên có thể di truyền từ bên bố hoặc mẹ. Việc xét nghiệm gene để phát hiện đột biến tốn kém và mất nhiều thời gian.

Phụ nữ bị đột biến gene có khả năng bị ung thư vú. Ảnh minh họa.
Các yếu tố nội tiết: Ung thư vú có liên quan đến nội tiết sinh dục nữ. Estrogen được tiết ra chủ yếu ở buồng trứng. Đây là nội tiết tố cần thiết trong quá trình hình thành đặc tính sinh dục và sinh sản ở nữ. Tuy vậy tế bào của vú bị tiếp xúc quá nhiều với estrogen có thể có nguy cơ trở thành ung thư.
Các yếu tố đề cập dưới đây đều liên quan đến việc tế bào của tuyến vú tăng tiếp xúc với estrogen và nguy cơ trở thành ung thư cao hơn:
- Có kinh sớm, mãn kinh muộn, sinh con đầu lòng muộn. Những phụ nữ có kinh sớm thường có nồng độ estrogen cao hơn những người có kinh muộn.
- Sử dụng hormone thay thế khi mãn kinh. Đối với phụ nữ đã mãn kinh, nồng độ estrogen giảm. Tuy vậy, những phụ nữ này nếu bị béo phì (estrogen cũng được sinh ra trong mô mỡ) hoặc dùng thuốc nội tiết thay thế làm tăng nồng độ estrogen trong máu và làm tăng nguy cơ ung thư vú.
Lối sống và chế độ ăn: Béo phì và rượu là hai yếu tố làm tăng nguy cơ rõ nhất. Nguy cơ tăng khoảng 10% đối với phụ nữ uống rượu. Lượng rượu uống mỗi ngày càng nhiều, nguy cơ càng cao. Hiện tại người ta thấy chế độ ăn nhiều rau và hoa quả có tác dụng bảo vệ tức là giảm nguy cơ ung thư vú.
Các bệnh vú lành tính: Người ta phân ra các bệnh không tăng sinh và tăng sinh. Các bệnh không tăng sinh không có nguy cơ ung thư vú trong khi đó các bệnh tăng sinh nguy cơ cao gấp 1,5 đến 5 lần.
Các yếu tố môi trường: Tiếp xúc với bức xạ I-on hoá, các độc chất sinh ung thư trong môi trường, thực phẩm làm tăng nguy cơ ung thư vú.
2. Phòng bệnh ung thư vú
Với những hiểu biết về nguy cơ ung thư vú như trên, người ta đề ra những chiến lược phòng bệnh để loại bỏ, hạn chế các yếu tố nguy cơ. Nhưng hầu hết các nguy cơ được biết đều không dễ thay đổi. Việc có con sớm để giảm nguy cơ ung thư vú không dễ thực hiện ở phần lớn phụ nữ. Chủ động làm mãn kinh sớm tuy giảm được nguy cơ nhưng ảnh hưởng xấu đến tâm lý, sinh lý.
Sử dụng tamoxifen là một thuốc điều trị ung thư vú trong phòng ngừa đã được thử nghiệm và cho thấy làm giảm nguy cơ ung thư vú ở mọi lứa tuổi nhưng cũng làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung và tắc mạch do huyết khối, đặc biệt ở người già. Vì vậy, tamoxifen có ích lợi nhất trong phòng bệnh ở người trẻ có nguy cơ cao bị ung thư vú.
Cắt bỏ tuyến vú phòng bệnh là phương pháp có thể áp dụng đối với phụ nữ có nguy cơ cao như mang gene bị bệnh nhưng cần phải cân nhắc kỹ lưỡng với bác sĩ chuyên khoa trước khi đưa ra quyết định.

Thường xuyên luyện tập thể dục góp phần phòng ngừa ung thu vú.
Trong điều kiện nước ta, phòng bệnh ung thư vú có thể thực hiện theo cách sau:
- Có chế độ dinh dưỡng hợp lý: Ăn ít chất béo động vật (dưới 10% khẩu phần năng lượng) ăn nhiều rau xanh, hoa quả tươi, giảm hoặc tránh uống rượu.
- Thường xuyên luyện tập thể dục, thể thao, năng hoạt động để tránh béo phì.
- Hạn chế dùng thuốc nội tiết nữ thay thế kéo dài sau khi mãn kinh.
- Tránh tiếp xúc với các chất sinh ung thư trong môi trường, thực phẩm.
Xem thêm video đang được quan tâm:
Cắt bỏ khối u ung thư vú và tái tạo hình thể vú chỉ trong một lần mổ.