7 ngày làm vợ liệt sĩ - Cả đời giữ trọn lời hứa
"Em thương yêu!
Hàng năm cứ đến ngày này em hãy thắp vài nén hương tưởng nhớ tới anh. Còn khi em nhận được thư này hãy đừng buồn nhiều cho đời tươi trẻ. Nếu có điều kiện hãy cứ đi bước nữa vì đời còn trẻ lắm...
Khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới công anh. Nếu thương anh thực sự thì khi hòa bình có điều kiện vào Nam lấy hài cốt anh về".
Đó là những lời trong bức thư của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh viết gửi cho gia đình ngày 11/9/1972.
Tháng 1/1973, ông đã mãi mãi nằm lại nơi chiến trường thành cổ Quảng Trị khi mới 24 tuổi. Ông mất đúng ngày kỉ niệm một năm ngày cưới.
Vợ liệt sĩ Lê Văn Huỳnh là bà Đặng Thị Xơ, năm nay đã 75 tuổi. Bà sống một mình trong căn nhà tình nghĩa nằm sâu trong con ngõ nhỏ thuộc thôn Văn Hanh, xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (cũ), nay là tỉnh Hưng Yên.
Ngôi nhà nhỏ đơn sơ, gọn gàng, gian giữa kê một bàn thờ, bên trên đặt di ảnh liệt sĩ Lê Văn Huỳnh. Hai ông bà không có con, nói đúng ra là chưa kịp có con, cũng không có lấy một tấm hình chụp chung.
Thứ duy nhất ông để lại cho bà là 10 trang thư ông gửi về lúc còn sống, nay được phục chế và đóng khung cẩn thận như một kỉ vật vô giá.
Bà Đặng Thị Xơ bên di ảnh chồng là liệt sĩ Lê Văn Huỳnh
Nhớ về kí ức cách đây đã hơn 50 năm, bà Xơ kể lại: Cả hai ông bà sinh ra và lớn lên trên mảnh đất quê lúa Thái Bình, ở hai xóm cạnh nhau. Ông Huỳnh là con út trong gia đình có ba anh chị em. Bố ông mất từ khi ông chưa chào đời, mọi công việc gia đình đều một tay người mẹ gánh vác.
Năm 1970, hai người quen biết nhau, rồi đem lòng yêu nhau. Bà Xơ năm ấy vừa tròn đôi mươi, là công nhân thợ máy Hợp tác xã nông nghiệp Lê Lợi. Còn chàng trai Lê Văn Huỳnh khi ấy 21 tuổi, là sinh viên Đại học Xây dựng.
Hai bên gia đình nhiều lần giục cưới, nhưng hai ông bà đều lần khất, vì cả hai đã hẹn ước đợi ông Huỳnh học xong ra trường mới tính chuyện cưới xin.
10 trang thư của liệt sĩ Huỳnh được phục chế và đóng khung cẩn thận như một kỉ vật vô giá
Năm 1972, nhà trường thông báo ông Huỳnh sắp phải lên đường nhập ngũ. Được gia đình động viên, hai ông bà quyết định làm lễ cưới.
Đám cưới diễn ra ngày 2/1/1972. Khi đó ông Huỳnh 23 tuổi, đang là sinh viên năm 4, còn bà Xơ 22 tuổi.
Ngày đó cả hai gia đình đều nghèo nên đám cưới tổ chức đơn giản nhất có thể: Không cỗ bàn, loa đài, thuốc lá, cũng không có lấy bộ quần áo mới, thậm chí cả ảnh cưới cũng không chụp, chỉ có ca nước chè mời bà con họ hàng, làng xóm đến chung vui.
Vừa cưới được 3 ngày thì ông Huỳnh phải lên trường. Bà Xơ vẫn nhớ, khi ông đi, bà gói gém 27 đồng tiền mừng cưới đưa ông mang đi để đóng học, mua giấy bút, quần áo.
Tết Nguyên đán năm đó, ông được nghỉ về nhà thêm 3 ngày nữa là 6 ngày. Trước khi lên đường vào Nam chiến đấu, ông về nhà thăm vợ được nửa ngày rồi ra đi mãi mãi không trở về. Cộng cả ba lần, hai vợ chồng mới chỉ ở bên nhau vỏn vẹn chưa đầy... 7 ngày!
Dù đã hơn 50 năm trôi qua nhưng đến nay, mỗi khi nhắc đến chồng, bà Xơ vẫn rưng rưng nước mắt
Nói đến đây, đôi mắt bà Xơ đã nhòe đi vì nước mắt. Khẽ đưa tay lau đôi mắt ngấn lệ, bà Xơ nhớ lại: "Bữa cơm cuối cùng ở nhà chỉ có hai vợ chồng. Không ai nói với nhau câu nào, chỉ lặng lẽ ngồi khóc! Bởi khi đó chiến tranh ác liệt, không ai biết người ra đi có ngày trở về hay không?!"
Sau bữa cơm cuối cùng ấy, khoảng 2 giờ chiều, ông đạp xe sang Nam Định (cũ) để lên tàu vào Nam chiến đấu. Lúc đi, hành trang của ông cũng không có gì. Ông dặn vợ ở nhà thay ông chăm sóc mẹ; đi làm cẩn thận, lỡ có gãy chân gãy tay sau này cả hai vợ chồng thành thương binh không ai chăm nom.
Và lần gặp đó... cũng là lần gặp cuối cùng của hai người!
Trên đường vào Nam, đều đặn mỗi tháng ông đều gửi thư về cho gia đình. Có những lá thư mở ra, chữ đều đã nhòe đi vì nước mắt. Còn người ở nhà khi đọc thư cũng chỉ khóc.
Bức thư cuối cùng gia đình nhận được tháng 11/1972. Liệt sĩ Lê Văn Huỳnh hy sinh ngày 2/1/1973, đúng ngày kỉ niệm tròn một năm ngày cưới.
Lá thư đặc biệt nhất, được ông viết tháng 9/1972, sau đó bỏ vào ba lô. Sau khi ông hy sinh, đơn vị có gửi về cho gia đình, nhưng không đưa cho bà Xơ vì sợ bà đau buồn mà gửi người chị chồng cất giữ.
Có những lá thư mở ra, chữ đều đã nhòe đi vì nước mắt
Mãi đến năm 1975, khi đó là rằm tháng 7, mẹ chồng bà bảo các con mang hóa (đốt) các di vật đó đi để ông Huỳnh ra đi mát mẻ. Lúc đó người nhà mới phát hiện bức thư nhàu nát ở dưới đáy ba lô.
Đầu thư, ông Huỳnh gửi mẹ:
"Mẹ kính mến! Con rất hiểu đời mẹ đã khổ nhiều, nay bao hy vọng nuôi con khôn lớn, song vì đất nước có chiến tranh thì mẹ ơi hãy lau nước mắt cho đời trẻ lâu, sống đến ngày đón mừng chiến thắng.
Con đi mẹ ở lại trăm tuổi bạc đầu, coi như con lúc nào cũng nằm bên mẹ, mẹ đừng buồn cho linh hồn con được thoải mái bay đi… Thôi nhé mẹ đừng buồn coi như con đã sống trọn đời cho Tổ quốc mai sau".
Liệt sĩ Lê Văn Huỳnh hy sinh ngày 2/1/1973, đúng ngày kỉ niệm tròn một năm ngày cưới
Về phần vợ, ông Huỳnh căn dặn:
"Em yêu thương!
Lá thư này đến tay em là nỗi buồn nhất, và có lẽ là nỗi buồn đầu tiên trong cuộc đời của em.
Chúng ta sống với nhau chẳng được là bao thì chiến tranh đã cướp đi của em biết bao tình thương yêu trìu mến. Người ta lấy chồng thì được chiều chuộng mọi điều, song đối với em không những chẳng được cái diễm phúc ấy mà đã sớm phải xa rồi. Thật chỉ là vừa gặp nhau đã phải mãi mãi xa nhau!
Ngày cầm được lá thư, bóc ra đọc được mỗi dòng đầu, bà chỉ ngồi khóc
Em thương yêu! Nếu thực sự thương anh thì em sẽ làm theo lời anh căn dặn. Hàng năm cứ đến ngày này em hãy thắp vài nén hương tưởng nhớ tới anh. Còn khi em nhận được thư này hãy đừng buồn nhiều cho đời tươi trẻ. Nếu có điều kiện hãy cứ bước đi bước nữa vì đời còn trẻ lắm. Theo anh thì nên làm như vậy!
Nhưng anh chỉ mong một điều là đối đãi với mẹ, anh chị trong gia đình như anh còn sống. Anh mong em hãy làm tròn cho linh hồn anh được bay cao ôm ấp trong giấc mơ trìu mến của em!
…Thôi nhé em đừng buồn, khi được sống trong hòa bình hãy nhớ tới công anh. Nếu thương anh thực sự thì khi hòa bình có điều kiện vào Nam lấy hài cốt anh về…"
Ba từ "em thương yêu" được ông lặp đi lặp lại nhiều lần khi nhắc đến người vợ, cũng đủ thấy tình cảm mà ông dành cho bà, cũng như sự đau đớn, dằn vặt khi phải nói lời chia xa, cũng chẳng có cơ hội chia tay lần cuối.
Ngày cầm được lá thư, bóc ra đọc được mỗi dòng đầu, bà chỉ ngồi khóc, khóc suốt. Người chị chồng sau đó phải mang lá thư về nhà, không để bà xem. Mấy năm sau mới đưa lại cho bà.
Bà Xơ nay tóc đã bạc màu, vẫn giữ trọn lời hứa thuỷ chung
Và đến nay, đã hơn 50 năm trôi qua, khi đọc lại những dòng thư ấy, bà Xơ vẫn không kìm được nước mắt.
Đáng chú ý, trong đoạn cuối thư, liệt sĩ Huỳnh còn để lại địa chỉ nơi ông hy sinh, để chỉ đường cho vợ sau này có thể vào "đón" ông về:
"Đi tàu vào thị xã Quảng Trị, qua sông Thạch Hãn là nơi anh đã hy sinh khi đưa hàng qua sông vào ngày 2/1/1973. Từ thị xã qua cầu, ngược trở lại, hỏi thăm thôn Nhan Biều 1. Em cứ đi đến đó, tính xuôi theo dòng nước thì ở cuối làng. Đến đó sẽ tìm thấy tấm bia ghi tên anh đục trên mảnh tôn. Mộ anh ở đó…".
Bức thư cảm động của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh gửi cho gia đình được gọi là 'lá thư gửi từ lòng đất"
Cho đến tận ngày hôm nay, nhiều người cho rằng những lời ông để lại là tâm linh. Nhưng theo bà Xơ, trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt lúc bấy giờ, ông Huỳnh đã dự báo trước cái chết của mình là điều khó tránh.
Tết Nguyên đán năm 1973, giấy báo tử của liệt sĩ Huỳnh được gửi về địa phương. Vì lo lắng bà sẽ bị sốc, người chị chồng đã xin chính quyền địa phương hoãn báo tử 3 tháng. Đến tháng 5/1973, giấy báo tử chính thức được gửi về gia đình.
Ngày nhận tin dữ, bà Xơ như sụp đổ, không nghĩ được rằng bên nhau chưa đủ 7 ngày, nay chồng đã ra đi mãi mãi.
Bà Xơ nói trong nước mắt: "Lúc đó chỉ biết khóc, khóc suốt đêm suốt ngày! Khóc ròng rã mấy tháng trời. Khóc đến nỗi hai mắt đỏ như hai cục tiết, không có tí lòng trắng nào!"
Rồi đi đâu, bà cũng không dám nhìn mặt mẹ chồng, vì không biết nói với mẹ như thế nào. Mẹ mất con, bà thì mất chồng! Cả hai người phụ nữ gầy yếu đều phải chịu nỗi đau lớn nhất cuộc đời.
Ngày nhận tin chồng hy sinh, bà Xơ như sụp đổ, không nghĩ được rằng bên nhau chưa đủ 7 ngày, nay chồng đã ra đi mãi mãi
Rồi sau ngày ông hy sinh, mẹ chồng nhiều lần gọi bà nói chuyện, bảo: "Con đi lấy chồng đi! Mẹ cưới cho!"
Bà Xơ chỉ biết khóc xin mẹ: "Việc riêng của con mẹ cho con quyết định. Nếu có điều kiện thì con thưa chuyện với mẹ!"
Rồi gia đình họ hàng cũng giới thiệu, mai mối, nhưng bà đều từ chối.
"Thật ra thì rất lăn tăn! Vì trong thư ông ấy dặn đưa ông về, vẽ cả đường để vào đó. Thế mà mình không đưa được ông ấy về thì rất áy náy. Hai nữa là mình đã hứa sống trọn đời với ông ấy rồi nên mình quyết định không đi bước nữa. Cố chờ để đưa ông ấy về!" – bà Xơ nghẹn ngào.
Lúc bấy giờ, tâm nguyện duy nhất của bà là lúc còn sống có thể đưa được hài cốt của chồng về quê hương, về với bố mẹ, ông bà tổ tiên. Vì thế trong thâm tâm bà lúc nào cũng nghĩ: Phải cố gắng và bằng mọi cách phải thực hiện cho được.
Sau 29 năm kể từ ngày liệt sĩ Huỳnh hy sinh, gia đình mới đón được liệt sĩ Lê Văn Huỳnh trở về quê hương
Năm 1977, mẹ chồng bà mất do mắc bệnh hiểm nghèo khi mới 53 tuổi, không đợi được ngày đón đứa con trai thân yêu trở về.
Sau rất nhiều cố gắng tìm kiếm, phải đến năm 2002, sau 29 năm kể từ ngày liệt sĩ Huỳnh hy sinh, gia đình mới đón được ông trở về quê hương. Tâm nguyện lớn nhất khi còn sống của bà Xơ đã thành hiện thực.
Hài cốt liệt sĩ Lê Văn Huỳnh được quy tập tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (cũ), nay là xã Trà Giang, tỉnh Hưng Yên.
Nói về quyết định không đi bước nữa của mình, bà Xơ khẽ mỉm cười: "Mình quyết định ngay từ lúc mình còn trẻ nên mình không nghĩ gì cả. Đã xác định thì mình chấp nhận hết! Chưa một lần mình cảm thấy hối hận vì quyết định đó".
Hài cốt liệt sĩ Lê Văn Huỳnh được quy tập tại Nghĩa trang liệt sĩ xã Hồng Thái, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình (cũ), nay là xã Trà Giang, tỉnh Hưng Yên
Câu chuyện của liệt sĩ Lê Văn Huỳnh và bà Đặng Thị Xơ là minh chứng cho tình yêu bất diệt, sự thủy chung son sắt giữa bom đạn chiến tranh. Người phụ nữ ấy, dù chỉ có 7 ngày làm vợ, nhưng đã dành cả cuộc đời để giữ trọn lời hứa.
Đó cũng là minh chứng cho sự tàn khốc của chiến tranh đã cướp đi biết bao người chồng, người cha, người con… Để chúng ta hôm nay, càng trân quý hơn bao giờ hết giá trị của hòa bình.
Hòa bình không phải là món quà được trao tặng, mà là thành quả được đánh đổi bằng máu xương và nước mắt không gì bù đắp nổi.