Bước ngoặt lớn nhất trong cuộc chiến chống vi khuẩn là khi Alexander Fleming tìm ra kháng sinh penicillin năm 1928. Từ đó đến nay, đã có rất nhiều nhóm kháng sinh - có nguồn gốc tự nhiên hoặc được tổng hợp được đưa vào sử dụng. Nhưng, vi khuẩn, với những cấu trúc tưởng chừng như đơn giản lại tỏ ra vô cùng hữu hiệu khi chống lại kháng sinh. Với những bộ óc siêu việt, loài người nhiều khi vẫn chấp nhận thất bại trước những kẻ thù không có... não này! Sau đây là một số loại vi khuẩn có tính kháng kháng sinh mạnh nhất hiện nay.
Escherichia coli (E.coli)
Được phát hiện năm 1895, vi khuẩn này có khả năng kháng kháng sinh cao và độc tính mạnh. E.coli gây các bệnh chính như tiêu chảy, nhiễm khuẩn tiết niệu, viêm màng não. Phần lớn vi khuẩn E.coli sống trong đường tiêu hóa con người và hoàn toàn vô hại. Tuy nhiên, một số chủng thuộc loại này lại có thể gây nên những chứng bệnh nguy hiểm mà phổ biến là nhiễm độc thực phẩm và viêm màng não nặng cũng như các viêm nhiễm khác.Tính kháng kháng sinh của E.coli đã có từ lâu và ngày càng xuất hiện những chủng E.coli đa kháng, gây rất nhiều khó khăn cho việc điều trị.
Acinetobacter baumannii
Được phát hiện năm 1911. A. baumannii gây các bệnh chính: viêm phổi, viêm màng não, viêm đường tiết niệu, có tính kháng kháng sinh và độc tính cao. Đây là vi khuẩn kháng rất nhiều loại kháng sinh (đa kháng) và hiện nay đang là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn bệnh viện đáng lo ngại hàng đầu trong hầu hết các đơn vị hồi sức tích cực trên thế giới. Thực tế, A.baumannii kháng hầu hết các loại kháng sinh, kể cả các loại kháng sinh thế hệ mới nhất và chỉ còn nhạy với một vài dòng kháng sinh thế hệ trước như colistin.A.baumannii có khả năng tồn tại ở những môi trường khắc nghiệt trong một thời gian dài, vì vậy rất khó có thể loại bỏ chúng bằng các phương pháp vệ sinh thông thường.Vi khuẩn này đôi khi còn được gọi là vi khuẩn Iraq (Iraqibacter) do trong thời gian chiến tranh Iraq, rất nhiều binh sĩ bị thương bị nhiễm khuẩn bởi loại vi khuẩn này.
Staphylococcus aureus
Được phát hiện năm 1884. S. aureus là nguyên nhân gây viêm phổi, nhiễm khuẩn nhiễm độc thức ăn và nhiễm khuẩn nhiều cơ quan khác. Nó có tính kháng kháng sinh: trung bình nhưng độc tính cực kỳ cao đối với con người. Staphylococcus aureus là tụ cầu vàng hoặc MRSA - tụ cầu kháng kháng sinh methicillin (Methicillin - resistant Staphylococcus aureus). Staphylococcus aureus là vi khuẩn rất dễ lây lan từ da qua chỗ tổn thương đến các cơ quan gây nhiễm khuẩn. Tụ cầu vàng cũng có thể phát triển rất nhanh ở thức ăn ôi thiu, tiết ra ngoại độc tố gây nhiễm khuẩn nhiễm độc thức ăn. Trong những năm 60, có tới 80% các mẫu tụ cầu vàng đã kháng penicillin và hiện nay đã có nhiều mẫu kháng cả kháng sinh vancomycin, một loại kháng sinh đặc trị nhất cho nhiễm khuẩn do tụ cầu vàng.
Mycobacterium tuberculosis
Lần đầu được phát hiện năm 1882, gây bệnh lao phổi cũng như lao các cơ quan khác như lao xương, lao màng não... Mặc dù chỉ có tính kháng kháng sinh ở mức trung bình, vi khuẩn này có độc tính rất cao, dễ lây lan và khó điều trị khi kháng thuốc. Mycobacterium tuberculosis còn được biết đến dưới một số các tên khác như Scrofula, White Plague, đã là nỗi kinh hoàng gây chết chóc trong lịch sử nhân loại. Đã có bằng chứng gây bệnh của vi khuẩn lao, thậm chí ở những xác ướp cách đây 9.000 năm.
Clostridium difficile
Còn được gọi là “siêu bọ - superbugs” do vi khuẩn này hiện diện ở hầu hết các bệnh viện trên toàn thế giới. C. difficile dễ dàng lây lan và gây tiêu chảy cấp cũng như một số các biến chứng ở đại tràng. Bất chấp các biện pháp vệ sinh nghiêm ngặt, C.difficile vẫn lây lan nhanh và thậm chí tạo những vụ dịch nhỏ ngay trong bệnh viện. Vi khuẩn này được phát niện năm 1935, có tính kháng kháng sinh không cao nhưng độc tính ở mức nguy hiểm.
Streptococcus pyogenes
Cũng giống như E.coli, S.pyogenes có thể tìm thấy sống ở 5-15% đường hô hấp người bình thường mà không gây bệnh.Vi khuẩn này hàng năm là nguyên nhân của trên 700 triệu ca nhiễm khuẩn trên thế giới với tỷ lệ tử vong lên tới 25%. Mặc dù còn nhạy với kháng sinh penicillin, hiện nay đã xuất hiện một số chủng S.pyogenes kháng nhiều loại kháng sinh thông dụng.S.pyogenes được phân lập năm 1884, hay gây viêm họng, nhiễm khuẩn da, tính kháng kháng sinh thấp nhưng độc tính có thể gây chết người.
Burkholderia cepacia
Được phát hiện năm 1949, hay gây viêm phổi, tính kháng kháng sinh thấp và độc tính đáng lo ngại. Được phát hiện ban đầu là nguyên nhân gây hành thối, B.cepacia rất nguy hiểm khi gây nhiễm khuẩn ở người. Trong khi phần lớn các chủng thuộc loại này vẫn đáp ứng điều trị với liệu pháp kết hợp kháng sinh thì một số đã có biểu hiện kháng nhiều loại kháng sinh trong những ca bệnh nặng.B.cepacia đặc biệt nguy hiểm ở những trường hợp đã có sẵn bệnh lý trước tại phổi như xơ hóa nang.
TS.BS. Vũ Đức Định