6 sai lầm thường gặp khi dùng thuốc chống đông máu

04-10-2025 11:00 | An toàn dùng thuốc

SKĐS - Thuốc chống đông máu là một trong những nhóm thuốc quen thuộc trong điều trị tim mạch, nhưng việc hiểu đúng và sử dụng an toàn lại không hề đơn giản. Ngay cả trong thực hành lâm sàng, bác sĩ đôi khi vẫn có thể nhầm lẫn, làm giảm hiệu quả điều trị và tiềm ẩn nguy cơ cho người bệnh.

Đột quỵ não do tự ý bỏ thuốc chống đông máuĐột quỵ não do tự ý bỏ thuốc chống đông máu

SKĐS - Thuốc chống đông máu cần được sử dụng đúng chỉ định của bác sĩ. Nếu người bệnh tự ý tăng giảm liều hoặc bỏ thuốc có thể gây đột quỵ và nhiều biến chứng nguy hiểm...

1. Nhầm lẫn giữa thuốc chống đông và thuốc chống ngưng tập tiểu cầu

Thuốc chống đông đường uống và thuốc chống ngưng tập tiểu cầu là hai nhóm thuốc thường bị hiểu nhầm là một. Tuy nhiên thực tế, đây là hai nhóm thuốc hoàn toàn khác nhau:

- Thuốc chống đông đường uống gồm 2 loại chính là kháng vitamin K tổng hợp (như warfarin, acenocoumarol) và thuốc chống đông đường uống thế hệ mới - NOAC (như dabigatran, rivaroxaban, apixaban, edoxaban). Nhóm thuốc này có tác dụng ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông trong buồng tim và mạch máu, thường được chỉ định ở bệnh nhân rung nhĩ, thay van tim cơ học, hoặc có tiền sử huyết khối tĩnh mạch sâu, thuyên tắc phổi…

6 sai lầm thường gặp khi dùng thuốc chống đông máu- Ảnh 2.

Thuốc chống đông được dùng để dự phòng biến cố tim mạch do xơ vữa (như nhồi máu cơ tim, đột quỵ thiếu máu não).

- Thuốc chống ngưng tập tiểu cầu: Gồm aspirin, clopidogrel, ticagrelor… Nhóm này hoạt động theo cơ chế giúp tiểu cầu không dính lại với nhau tại những vết nứt, vỡ của thành mạch, nhờ đó ngăn chặn hình thành cục máu đông trong lòng động mạch. Đây là thuốc thường dùng để dự phòng biến cố tim mạch do xơ vữa (như nhồi máu cơ tim, đột quỵ thiếu máu não).

Chính vì khác biệt cơ chế và chỉ định, việc dùng thuốc chống đông phức tạp hơn rất nhiều so với thuốc chống ngưng tập tiểu cầu. Thuốc chống đông cần được bác sĩ chỉ định chặt chẽ, theo dõi sát chỉ số đông máu và điều chỉnh liều thường xuyên. Trong khi đó, aspirin có thể mua dễ dàng tại nhà thuốc và thường được bác sĩ kê dự phòng cho những người có yếu tố nguy cơ xơ vữa mạch máu, nếu không có chống chỉ định.

2. Cho rằng thuốc chống đông loại kháng vitamin K tổng hợp luôn điều trị bằng liều 1 mg

Nhiều người nghĩ rằng thuốc chống đông loại kháng vitamin K tổng hợp luôn được điều trị bằng liều cố định 1 mg. Thực tế, đây chỉ là một thói quen kê đơn ban đầu. Các bác sĩ thường chia nhỏ viên thuốc như sintrom (acenocoumarol) hoặc warfarin (coumadin) thành 1mg để khởi trị, nhưng điều này không có nghĩa là mọi bệnh nhân đều dùng chung một liều.

Trên thực tế, việc dùng thuốc kháng vitamin K cần cá thể hóa cho từng người bệnh. Liều dùng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như tuổi tác, cân nặng, chức năng gan – thận, mức độ bệnh tim mạch, tình trạng rung nhĩ hoàn toàn hay không hoàn toàn, cũng như chỉ số INR theo dõi định kỳ.

Một số trường hợp bác sĩ phải chia liều rất linh hoạt, thậm chí đến 1/8 viên, hoặc dùng xen kẽ: Ngày uống 1/2 viên, ngày 1/4 viên, có khi 3/8 hoặc 3/4 viên… Việc điều chỉnh chi tiết như vậy giúp duy trì hiệu quả chống đông tối ưu và giảm nguy cơ chảy máu hoặc tắc mạch.

3. Cho rằng thuốc chống đông đường uống thế hệ mới không cần theo dõi xét nghiệm đông máu

Nguyên tắc này là đúng, bởi các thuốc NOAC thường có tác dụng ổn định hơn so với nhóm kháng vitamin K truyền thống. Tuy nhiên, trên thực tế nếu xuất hiện những dấu hiệu bất thường như chảy máu chân răng, bầm tím dưới da, đi ngoài phân đen, nôn ra máu… thì người bệnh cần đi khám ngay và làm xét nghiệm theo chỉ định của bác sĩ.

Không ít trường hợp ban đầu chỉ xuất hiện triệu chứng chảy máu rất mơ hồ, nhưng sau đó lại phát hiện có biến chứng nghiêm trọng như tràn máu khớp gối, xuất huyết dạ dày, thậm chí xuất huyết não khi đang sử dụng NOAC. Vì vậy, dù không cần xét nghiệm đông máu thường xuyên như thuốc kháng vitamin K, người bệnh vẫn cần được theo dõi định kỳ và cảnh giác với mọi dấu hiệu chảy máu bất thường.

6 sai lầm thường gặp khi dùng thuốc chống đông máu- Ảnh 3.

4. Khi dùng thuốc kháng đông tuyệt đối không được ăn cải xanh

Đây là một hiểu nhầm khá phổ biến. Đúng là hầu hết sách vở đều khuyến cáo hạn chế các thực phẩm giàu vitamin K như rau cải xanh, cải xoăn, đậu nành, gan động vật, trứng, trái cây sấy khô, các loại dầu thực vật… bởi vitamin K có thể làm giảm hiệu quả của nhóm thuốc kháng vitamin K.

Tuy nhiên, điều này chỉ đúng khi hiệu quả chống đông chưa đạt (chỉ số INR thấp). Ngược lại, nếu chỉ số INR quá cao, đôi khi bác sĩ lại khuyên bệnh nhân bổ sung thêm thực phẩm giàu vitamin K, chẳng hạn như cải xanh, để cân bằng lại tác dụng của thuốc.

Điều quan trọng nhất là bệnh nhân không tự ý kiêng khem hoặc bổ sung thực phẩm theo lời truyền miệng, mà cần tuân thủ hướng dẫn của bác sĩ dựa trên kết quả xét nghiệm INR định kỳ.

5. Dùng thuốc chống đông thì không được làm thủ thuật như nhổ răng, làm implant…

Có ý kiến cho rằng, đang dùng thuốc chống đông thì không thể làm thủ thuật nha khoa hay phẫu thuật như nhổ răng, implant… Thực tế, điều này không hoàn toàn đúng. Nếu thủ thuật được lên lịch trước, bác sĩ sẽ hướng dẫn bệnh nhân tạm ngừng thuốc chống đông đường uống và thay bằng thuốc chống đông có thời gian bán hủy ngắn (như enoxaparin) trong vài ngày. Thuốc tiêm này sẽ được ngừng trước thủ thuật khoảng 12 giờ để có thể tiến hành thủ thuật một cách an toàn.

Trong những tình huống phải mổ cấp cứu, bác sĩ có thể sử dụng các thuốc trung hòa tác dụng của thuốc chống đông: Với kháng vitamin K sẽ dùng tiêm vitamin K; với heparin có thể dùng protamin sulfat; còn với thuốc nhóm NOAC như dabigatran thì có thuốc giải độc đặc hiệu idarucizumab.

6. Không nên dùng liên tục thuốc chống đông

Nhiều người cho rằng, thuốc chống đông không nên dùng liên tục mà nên có thời gian tạm nghỉ, hoặc nếu quên có thể uống bù hôm sau. Tuy nhiên, đây là sai lầm nghiêm trọng nhất.

Không uống thuốc chống đông có thể chưa gây biến chứng ngay lập tức, nhưng việc đang dùng mà ngừng đột ngột sẽ làm tăng nguy cơ tăng đông máu, dẫn đến hình thành huyết khối. Tình trạng này có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm như đột quỵ, nhồi máu cơ tim, thuyên tắc phổi hoặc tắc mạch chi.

Ngoài ra, việc quên liều thuốc cũng không nên uống bù vào ngày hôm sau. Nếu uống gấp đôi liều sẽ làm tăng nguy cơ chảy máu nặng, xuất huyết tiêu hóa hoặc chảy máu não.

Xem thêm video đang được quan tâm:

Đột quỵ do tự ý ngừng dùng thuốc chống đông máu.

PGS.TS. Nguyễn Lân Hiếu
Bệnh viện Đại học y Hà Nội
Ý kiến của bạn