1. Nhiễm trùng kháng thuốc sẽ giết chết nhiều người hơn ung thư – nếu chúng ta không hành động gấp
Trong năm 2015 người ta sẽ được nghe nói tới nhiều hơn về kháng kháng sinh vì chúng ta gần như đã hết các kháng sinh có hiệu quả.
Bản tính tự nhiên của vi khuẩn và vi rút là tiến hóa và dần kháng lại các thuốc được phát minh để điều trị những bệnh do chúng gây ra. Nhưng trong nhiều thập kỷ, chúng ta đã đẩy nhanh tốc độ của sự tiến hóa này bằng việc lạm dụng các thuốc kháng sinh khi không cần thiết, bằng việc không dùng đủ liệu trình điều trị theo đơn bác sĩ, và bằng việc vi phạm các qui trình kiểm soát nhiễm trùng trong bệnh viện, nơi những “siêu vi khuẩn” kháng thuốc có thể dễ dàng lan tràn.
Trong quá khứ chúng ta chỉ sáng chế ra các thuốc mới khi thuốc cũ trở nên kém hiệu quả. Không may là chiến lược này không thể bền vững: kể từ năm 1987 đến nay không có khám phá mới nào về một nhóm kháng sinh thực sự khác biệt.
Tình trạng kháng kháng sinh còn đáng sợ hơn khi nó diễn ra cùng với thực tế là sức khỏe của chúng ta đang phụ thuộc quá nhiều vào kháng sinh. Không chỉ là thương tích, viêm họng hay bệnh lây qua đường tình dục cần đến loại thuốc này, mà nhiều phương pháp điều trị hiện nay cũng phải dựa vào kháng sinh để ngăn ngừa nhiễm trùng. Bất cứ ai từng trải qua, hoặc có người thân từng trải qua điều trị ung thư, ghép tạng, thay khớp, hoặc biến chứng thai sản, đều hiểu kháng sinh mang lại lợi ích thế nào. Đó là thứ rất có ý nghĩa với tất cả chúng ta.
Cuối cùng các chính phủ cũng đã bắt tay vào việc đẩy nhanh nỗ lực ngăn chặn cuộc khủng hoảng này. Nhiều đáp ứng của Mỹ và quốc tế đã được lên kế hoạch trong năm tới. WHO sẽ xuất bản "Kế hoạch hành động toàn cầu về kháng kháng sinh” vào tháng 5/2015.
Ấn phẩm The O'Neill Review ở Anh sẽ công bố các phát hiện của mình, dựa trên những kết quả sơ bộ từ tuần trước cho thấy kháng kháng sinh sẽ khiến có thêm ít nhất 10 triệu người chết mỗi năm (hơn cả số tử vong tăng thêm do ung thư) và khiến kinh tế thế giới tổn thất 100 nghìn tỉ đô la đến năm 2050. Cũng sẽ có những hành động gần hơn: kháng kháng sinh sẽ là phần chủ đạo của Chương trình an ninh y tế toàn cầu của chính quyền tổng thống Obama.
2. Nỗi hoảng sợ Ebola đang qua đi nhưng không được để nó diễn ra lần nữa.
Chỉ vì nỗi hoảng sợ Ebola đang tan dần không có nghĩa là vấn đề sức khỏe cộng đồng này sẽ ít cấp thiết hơn. Năm 2014 đã ghi dấu vụ dịch Ebola tồi tệ nhất trong lịch sử và lần đầu tiên chúng ta chứng kiến sự lây lan ra khắp thế giới của vi rút chết người này. Hậu quả mà dịch bệnh để lại sẽ không dễ gì khắc phục.
Kinh tế châu Phi bị thiệt hại nghiêm trọng: người dân mất việc làm do hậu quả của Ebola, trẻ em không được đi học, nạn khan hiếm thực phẩm lan rộng. Dịch bệnh đã gây ra tổn thất chưa từng có cho hệ thống y tế ở Guinea, Liberia và Sierra Leone. Hàng trăm bác sĩ và y tá đã chết trên tuyến đầu, mà đây lại là những nước vốn đã không có nhiều các nhân viên y tế.
Chúng ta biết rằng trong cuộc khủng hoảng Ebola, người dân đã không nhận được những dịch vụ y tế cần thiết, bao gồm tiêm chủng trẻ em và chăm sóc thai sản. Vì thế cộng đồng y tế thế giới sẽ cần thống nhất xung quanh việc ngăn ngừa thiệt hại do dịch bệnh này; điều còn chưa thực hiện được sau khi sự lây lan của dịch bệnh được ngăn chặn ở ba nước bị ảnh hưởng nhiều nhất.
Có một điều an ủi là Ebola sẽ được chú ý nhiều hơn trong năm tới. Các công ty thuốc đang ráo riết phát triển vắc xin và thuốc điều trị, vì thế năm 2015 có thể thực sự đưa những thuốc hoặc sản phẩm phòng bệnh chưa từng có ra thị trường. (Hiện có hơn một chục loại thuốc điều trị Ebola đang được triển khai, nhưng cho đến nay chưa có thuốc nào có tác dụng trên người hoặc được phép bán.) Đây là một công việc lớn nếu biết rằng vi rút được phát hiện từ năm 1976 và đã bị ngành dược phẩm thờ ơ trong suốt từng ấy năm.
Ngay khi thuốc hoặc vắc xin đầu tiên diễn ra thành công trong các thử nghiệm lâm sàng, nó sẽ có mặt trên thị trường trong thời gian kỷ lục. Tuần qua, tổng thống Barack Obama đã ký một dự luật cho phép công ty phát triển liệu pháp có triển vọng được ưu tiên xem xét bởi Cục Quản lý thuốc và thực phẩm (FDA) Mỹ, đồng nghĩa với việc đơn xin cấp phép sẽ được xử lý nhanh chóng. Đây là một sáng kiến lớn để tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu cách điều trị Ebola.
3. Chương trình phát triển quốc tế mới sẽ đặt lại những ưu tiên y tế toàn cầu
Cho dù Ebola được chữa khỏi và phai mờ trong tâm trí chúng ta, thì phát triển quốc tế vẫn tiếp tục là vấn đề thời sự trong năm 2015 với sự ra đời của những Mục tiêu phát triển bền vững mới, sẽ được Liên Hiệp Quốc cùng 193 nước thành viên đặt ra như một lộ trình tiến tới thế giới mà chúng ta mong muốn.
Lộ trình này sẽ thay thế cho các Mục tiêu thiên niên kỷ vốn đã định hướng những ưu tiên hỗ trợ quốc tế từ năm 2001. Khuôn khổ phát triển mới sẽ hình thành nhờ quá trình tham vấn toàn cầu rộng rãi nhất từng được Liên Hiệp Quốc tiến hành.
Bất chấp việc chúng ta tin vào các tin tức thời sự như thế nào, thế giới đã thực sự có bước tiến bộ mạnh mẽ trong 25 năm qua. Có lẽ không có lĩnh vực phát triển quốc tế nào có tiến bộ nhiều như y tế toàn cầu - nhờ việc có được 3 trong số 8 Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Đơn cử như số tiền tài trợ từ các chính phủ và các nhà tài trợ đã tăng gấp 5 lần, từ 5,82 tỷ đô la năm 1990 lên 31,3 tỷ đô la năm 2013. So với năm 1990, tỷ lệ tử vong trẻ em đã giảm 47%, tỷ lệ tử vong mẹ giảm 45%, và sự lây lan của HIV/AIDS, sốt rét và nhiều bệnh khác bắt đầu được đẩy lùi.
4. Chúng ta đang thất bại với thay đổi khí hậu
Một trong những mô tả cô đọng nhất về cuộc khủng hoảng thay đổi khí hậu là từ cuốn tiểu thuyết khoa học của Naomi Oreskes và Erik M. Conway xuất bản trong năm nay, cuốn sách mang tên “Sự sụp đổ của nền văn minh phương Tây”.
"Trong nền văn minh thời tiền sử" cuốn sách mở đầu, "nhiều xã hội đã hưng thịnh và suy tàn, nhưng không có mấy xã hội để lại bảng kê rõ ràng và bao quát của những gì đã xảy ra và lý do tại sao như các quốc gia thế kỷ 21 vẫn tự gọi mình là nền văn minh phương Tây."
Tính cấp bách của việc định hình cơ chế điều phối đối với thay đổi khí hậu đang ngày càng lớn. Sự hiện diện của các khí nhà kính đang cao hơn bao giờ hết, và tốc độ phát thải của chúng tiếp tục tăng lên. Theo TS. Margaret Chan, Tổng giám đốc WHO, đây là một vấn đề của sức khỏe toàn cầu. "Tràn ngập các bằng chứng cho thấy thay đổi khí hậu gây nguy hiểm cho sức khỏe con người. Đã có những giải pháp và chúng ta cần hành động quyết liệt để thay đổi thảm kịch này."
Có lẽ năm 2015 sẽ khác. Ngay cả trước khi Hội nghị Biến đổi khí hậu lần thứ 20 (COP 20) kết thúc ở Lima hồi tháng 12, thế giới đã bắt đầu nhìn về COP 21 với kỳ vọng một thỏa ước ràng buộc có tính pháp lý sẽ thay thế cho Nghị định thư Kyoto phần lớn chưa thành công.
Nhưng liệu một thỏa ước như vậy có sẽ thực sự làm giảm mức độ khí nhà kính hay không thì còn đang bị tranh cãi. Cho đến nay, các cuộc đàm phán về thay đổi khí hậu – đánh giá hoàn toàn dựa trên kết quả đạt được – tỏ ra không thành công lắm. Điều này đặt ra những câu hỏi về việc liệu các thỏa ước quốc tế có thật sự hiệu quả. Một tổng kết gần đây gồm 90 nghiên cứu đánh giá tác động định lượng cho thấy các thỏa ước này có kết quả không đồng nhất.
Tất cả những điều này sẽ cần thay đổi theo cách nào đó. Cho dù thỏa thuận chính trị tại COP 20 ở Lima được thực thi triệt để (một điều kì diệu), thì nó vẫn sẽ không đảo ngược được mức độ nóng lên của trái đất mà các nhà khoa học cho biết là sẽ gây ra những hậu quả thảm khốc. Hy vọng rằng nét đẹp và sự quyến rũ của kinh đô nước Pháp sẽ làm tất cả thay đổi.
5. Y học thực chứng sẽ càng dựa trên bằng chứng hơn
Có một thực tế rất đáng sợ về y học đương thời, và bất kỳ ai làm trong ngành y đều biết đó là sự thực: kết quả của rất nhiều thử nghiệm lâm sàng đã tiến hành không bao giờ được đưa ra ánh sáng. Nếu các nhà nghiên cứu không thích kết quả mà họ thu được, hoặc công ty thuốc gặp phải những kết luận không tốt, số liệu sẽ không cần phải công bố - và không ai trong chúng ta, những người đang sử dụng các thuốc và thiết bị khác nhau, biết được. Điều này có nghĩa là toàn bộ bằng chứng dành cho y học luôn bị sai lệch.
Trong nhiều năm, những người dân thường và các nhà nghiên cứu đã báo động về vấn đề này. Và tin tốt là cuối cùng họ đã đạt được kết quả, với một số thắng lợi lớn hứa hẹn trong năm tới.
Theo một kế hoạch mới được Bộ Y tế Mỹ đề xuất tháng trước, các nhà nghiên cứu đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng sẽ phải đăng ký vào một cơ sở dữ liệu thử nghiệm lâm sàng lớn nhất thế giới (clinicaltrials.gov) trong vòng 3 tuần sau khi đăng ký đối tượng nghiên cứu đầu tiên, và cũng báo cáo tóm tắt kết quả - cho dù kết quả thế nào. Kế hoạch này, nếu được phê duyệt, sẽ làm tăng mạnh dữ liệu thu được trong cơ sở dữ liệu.
Cũng vậy, kết quả báo cáo của Viện Y học Mỹ về việc chia sẻ dữ liệu thử nghiệm lâm sàng sẽ có trong năm tới, và nó được kỳ vọng là sẽ chứa đựng những hướng dẫn rất quan trọng về cách thức chia sẻ dữ liệu cấp độ bệnh nhân từ các thử nghiệm lâm sàng.
Quá trình này ở Mỹ diễn ra song song với phong trào AllTrials ở châu Âu, dẫn đầu bởi các nhà khoa học và các bác sĩ, để có được tất cả các thử nghiệm lâm sàng đã đăng ký, với toàn bộ phương pháp và kết quả của chúng được báo cáo. Nhiều chính phủ, bao gồm chính phủ Mỹ, đã đăng ký vào cuộc vận động này và hứa sẽ hành động. Cũng đã có những thay đổi trong cách thức mà Cơ quan thuốc châu Âu - một tổ chức tương đương FDA Mỹ - quản lý quá trình phê duyệt thuốc, cũng như công bố những yêu cầu cho các thử nghiệm lâm sàng mà họ sử dụng.
Việc giải quyết vấn đề này đòi hỏi thời gian. Nó cần sự hợp tác xung quanh việc chia sẻ dữ liệu từ tất cả các bên – các nhà quản lý, cộng đồng khoa học, các trường đại học, các tạp chí, ngành công nghiệp dược. Nhưng việc vạch ra cách thức để đưa thêm nhiều thử nghiệm lâm sàng ra khỏi bóng tối sẽ được tiến hành và sẽ cải thiện mọi quyết định cần được đưa ra trong y học.