Đột phá về thuốc điều trị HIV/AIDS
Trong nhiều năm, HIV tồn tại như một loại virus bất bại. Khi lây nhiễm cho ai đó, chỉ còn là vấn đề thời gian trước khi phát triển thành AIDS và cướp đi mạng sống của người bệnh. Đây là căn bệnh gây ra đại dịch cho nhân loại nửa cuối thế kỷ 20.
Nhưng mọi cái bắt đầu thay đổi từ năm 2006 với sự ra đời của thuốc atripla. Thuốc kết hợp 3 loại thuốc kháng virus trong một liều duy nhất, giúp việc uống thuốc dễ dàng và ít gây hại hơn.
Năm 2013, loại thuốc mới stribild được lưu hành, kết hợp 4 loại thuốc kháng HIV trong 1 liều duy nhất.
Vào năm 2017 và 2019, 2 loại thuốc mới, juluce và dovato đã được ra đời, cải thiện đáng kể các lựa chọn điều trị cho bệnh nhân.
2 loại thuốc đột phá nói trên giúp mọi bệnh nhân nhiễm HIV đều có thể sử dụng liệu pháp đơn liều hiệu quả, giúp giảm số lượng bệnh nhân HIV phát triển thành AIDS, đặc biệt giảm đáng kể chi phí chăm sóc sức khỏe.
Sự ra đời của các loại thuốc mới đem lại hiệu quả vượt bậc trong điều trị HIV.
Bệnh tim không còn là cửa tử
Trước thời điểm chuyển giao thế kỷ, ngành y còn nhiều hạn chế trong điều trị bệnh tim mạch. Giải pháp điều trị tình thế ngăn ngừa nhịp tim không đều bao gồm một lượng nhỏ morphin và lidocain. Hầu hết bệnh nhân không hồi phục.
Nhưng sang thế kỷ 21, số ca tử vong vì bệnh tim đã giảm tới 40%. Phần lớn là do sự phát triển của một nhóm thuốc mới, bao gồm lipitor, mevacor, crestor và simvastatin. Tất cả đều có tác dụng làm chậm quá trình tiến triển của xơ vữa động mạch (mảng bám và chất béo tích tụ trong động mạch). Nhờ nhóm thuốc này, số ca đau tim giảm mạnh.
Tuy nhiên, các cơn đau tim vẫn xảy ra, nhưng khi chúng xuất hiện được điều trị tức thì nên giảm cả 3 tiêu chí là số ca mắc giảm, tốc độ điều trị nhanh và số ca tử vong hạn chế tối đa.
Một khi nhập viện, cục máu đông có thể được phá hủy bằng thuốc. Một chất kích hoạt plasminogen mô được biến đổi gene (tPA) có thể làm tan cục máu đông, khôi phục lưu lượng máu. Với bệnh nhân cần phẫu thuật, phương pháp điều trị mới làm giảm số ca tử vong do nhồi máu tim.
Y học nano đã bỏ xa khoa học viễn tưởng
Tác động của thuốc nano đã làm thay đổi y học nhân loại trong tương lai. Đặc biệt, nó không để lại tác dụng phụ như dược phẩm truyền thống. Thay vì lập trình những con robot cực nhỏ, nanomedicine hoạt động bằng cách sử dụng các hạt nano được thiết kế đặc biệt để nhắm mục tiêu tế bào cụ thể trong quá trình phân phối thuốc. Công nghệ này đưa thuốc trực tiếp đến các tế bào bị ảnh hưởng, làm giảm tổng lượng thuốc cần thiết. Ngoài ra, các hạt nano tránh “va chạm” các tế bào khỏe mạnh, hạn chế tác dụng phụ.
Vắc-xin RNA - vũ khí mới cho cuộc chiến chống virus
Thành tựu này khiến tốc độ bào chế vắc-xin nhanh hơn, thỏa mãn nhu cầu bức thiết của cuộc sống như đại dịch COVID-19 đang diễn ra hiện nay. Đó chính là công nghệ vắc-xin RNA.
Vắc-xin truyền thống hoạt động bằng cách đưa một phiên bản không hoạt động của toàn bộ virus vào cơ thể. Hệ thống miễn dịch phản ứng bằng cách học cách tấn công và đối phó với nó, tạo ra protein cần thiết để chống lại virus.
Các loại vắc-xin RNA đưa axit nucleic mã hóa các protein mà tế bào cần, cung cấp “các hướng dẫn” cơ thể cần để chống lại virus. Công nghệ vắc-xin RNA tương đối mới. Vắc-xin COVID-19 là sản phẩm đầu tiên của công nghệ này. Nó bỏ qua giai đoạn thử nghiệm và đưa vào cơ thể bệnh nhân.
Cho đến nay, mọi việc đều suôn sẻ, thành công tuy mới chỉ là khởi đầu, nhưng vắc-xin RNA được xem là một trong những thành tựu y tế quan trọng của nhân loại những năm đầu thế kỷ 21.