1. Một số loài quế
ThS.BS. Nguyễn Quang Dương – Khoa Nội tổng hợp, Bệnh viện Tuệ Tĩnh cho biết, Đông y coi quế là một vị thuốc rất quý, nhất là loại quế Thanh Hóa của Việt Nam. Quế còn là nguồn hàng xuất khẩu quan trọng.
Tại Việt Nam có nhiều loài quế. Việc xác định tên những loài quế này chưa thật chắc chắn. Có 3 loại quế chính: Quế Thanh Hóa, Nghệ An: Cinnamomum ioureirii Nees; Quế loại Trung Quốc: Cinnamomum cassia Blume; Quế loại Sri Lanca: Cinnamomum zeylanicum Nees.
Ngoài ra, còn một số loài khác nữa cũng được khai thác và sử dụng. Trong khuôn khổ bài viết này tác giả đề cập chủ yếu đến loại quế Thanh Hóa.
Quế Thanh Hóa còn gọi là nhục quế, quế Thanh, quế Quỳ, cannellier royal, cannellier d’Annam. Tên khoa học Cinnamomum loureirii Nees (Cinnamomum obtusifolium Nees var. loureirii Perrot et Eberh, Laurus cinnamomum Lour.). Thuộc họ Long não Lauraceae.
Phần vỏ quế lấy từ cách mặt đất 0,2-0,4m đến 1,2m gọi là quế hạ căn coi là kém.
Từ 1,2m trở lên đến chỗ cây quế chia cành thứ nhất gọi là quế thượng châu được coi là quế tốt nhất.
Vỏ bóc ở những cành quế to gọi là quế thượng biểu.
Vỏ bóc ở cành nhỏ gọi là quế chi. Tên quế chi còn có khi dùng chỉ các cành quế con, phơi khô.
Với nhục quế thì vỏ quế càng dày càng tốt, nó không cay nhiều nhưng tính nóng, dùng để trợ dương, ôn thận thủy.
Ngoài những chất như tinh bột, chất nhầy, tanin, chất màu, đường, trong quế Việt Nam có tới 1-5% tinh dầu (các loài quế khác thường chỉ có 1-2%).
2. Công dụng của quế
Theo ThS.BS. Nguyễn Quang Dương, trong tây y, quế và tinh dầu quế được coi là một vị thuốc có tác dụng kích thích tuần hoàn máu (huyết được lưu thông), hô hấp cũng mạnh lên. Quế còn gây co mạch. Bài tiết cũng được tăng lên. Nó còn gây co bóp tử cung và tăng nhu động ruột. Tinh dầu có chất sát trùng mạnh.
Đông y coi quế là một vị thuốc bổ, có nhiều công dụng có khi chữa cả đau mắt, ho hen, bồi bổ cho phụ nữ sau sinh nở, bệnh đau bụng đi tả nguy hiểm đến tính mệnh. Tuy có nhiều người dùng quế, rất tin ở quế, nhưng cũng có một số người do dùng quế mà bị hỏng mắt, cho nên cũng cần thận trọng trong việc dùng quế. Ta cần chú ý theo dõi dần dần xác định trường hợp nào không dùng được.
Trong đông y ngoài việc dùng quế phối hợp với các vị thuốc khác, còn dùng độc vị quế.
Cách dùng quế như sau: Bột quế hòa với nước uống, hoặc quế mảnh hãm uống như pha trà, cho với nước nóng đậy nắp tránh mất tinh dầu.
Theo tài liệu cổ, quế có vị cay, ngọt, tính đại nhiệt, hơi có độc, vào hai kinh can và thận. Dùng chữa chân tay co quắp, lưng gối tê mỏi, bụng quặn đau, kinh nguyệt bế, tiểu tiện bất lợi, trên nóng dưới lạnh. Người âm hư dương thịnh, phụ nữ có thai không dùng được.
3. Một số bài thuốc ấm thận, trừ hàn từ quế
ThS. BS. Nguyễn Quang Dương giới thiệu một số bài thuốc ấm thận, trừ hàn từ quế như sau:
2 bài thuốc ấm thận bổ hỏa:
Trị thận dương hư nhược, chân tay lạnh, mạch yếu, tỳ vị hư hàn, bụng lạnh, đi tả lâu ngày:
Bài 1: Nhục quế 4g, hắc phụ tử 12g, lưu hoàng 4g, can khương 6g, chu sa 2,5g. Các vị nghiền mịn, làm hoàn, lấy chu sa làm áo. Mỗi lần 4g, ngày 2 lần, uống với nước.
Trị nôn nhiều, tiêu chảy.
Bài 2: Bài Tế sinh thận khí hoàn: Thục địa nướng 20g, sơn dược 16g, sơn thù du 8g, phục linh 12g, đơn bì 12g, trạch tả 12g, nhục quế 6g, phụ tử 12g, ngưu tất 12g, xa tiền tử 20g. Các vị nghiền mịn, làm mật hoàn. Mỗi lần 20g, ngày 2 - 3 lần, uống với nước.
Tác dụng: Ôn thận, hành thủy, trị phù thũng, viêm thận mạn tính, khí dương hư yếu, ớn rét, lạnh chân tay, tiểu khó, chân phù.
2 bài thuốc trừ hàn, giảm đau:
Bài 1: Nhục quế tán bột, mỗi lần 4g, uống với rượu đế.
Trị đau bụng do lạnh, dạ dày sa đau, phụ nữ đau bụng kinh do hư hàn.
Bài 2 - Nước sắc: Thục địa 16g, đương quy 12g, nhục quế 6g, can khương 6g, cam thảo 4g. Sắc uống. Ngày 1 thang, chia 2-3 lần. Uống khi thuốc còn ấm.
Trị phụ nữ đau bụng kinh do hư hàn.
Kiêng kỵ: Không dùng quế cho người âm hư hỏa vượng; phụ nữ có thai cần thận trọng. Không dùng cho người đại nhiệt hoặc huyết nhiệt vì dễ gây thổ huyết (nôn ra máu).
Xem thêm video đang được quan tâm:
Quế - gia vị "tăng sức mạnh" cho cơ thể.