Nhiều thành tựu đạt được…
Trong 30 năm qua, Việt Nam đã có những ứng phó một cách toàn diện với công tác phòng, chống HIV/AIDS: Tổ chức phòng, chống HIV/AIDS được thiết lập chặt chẽ từ Trung ương tới địa phương; sự cam kết chính trị mạnh mẽ và hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh, đảm bảo tính thống nhất chỉ đạo, huy động đa ngành và tăng cường thu hút đầu tư quốc tế vào công tác phòng chống HIV/AIDS.
Việc cung cấp các dịch vụ về phòng, chống HIV/AIDS liên tục được cập nhật, đổi mới, áp dụng các sáng kiến và khuyến cáo mới nhất của các tổ chức quốc tế giúp mở rộng về độ bao phủ và tăng cường về chất lượng các dịch vụ. Những năm gần đây, Việt Nam mỗi năm xét nghiệm cho khoảng 3 triệu lượt khách hàng; tổ chức giám sát ca bệnh thường xuyên và giám sát trọng điểm hàng năm; các hoạt động truyền thông triển khai đa dạng hình thức, phong phú về nội dung; triển khai các can thiệp dự phòng lây nhiễm HIV bao gồm bơm kim tiêm sạch, bao cao su, chất bôi trơn; dự phòng trước phơi nhiễm HIV bằng thuốc kháng HIV cho hàng triệu người; triển khai điều trị nghiện bằng thuốc thay thế cho hàng trăm ngàn người nghiện chất dạng thuốc phiện; điều trị cho người nhiễm HIV bằng thuốc kháng HIV cho hơn 150 ngàn người. Ngoài ra còn cung cấp các dịch vụ dự phòng lây truyền HIV từ mẹ sang con, an toàn truyền máu, dự phòng các nhiễm khuẩn lây qua đường tình dục…
Tư vấn dùng thuốc ARV cho người bệnh
Sự tham gia của các tổ chức xã hội trong phòng, chống HIV/AIDS cũng đã có bước tiến đáng kể. Ngay từ giai đoạn đầu người nhiễm HIV đã thành lập và tham gia của các nhóm tự lực và sau đó thành lập các mạng lưới, các tổ chức cộng đồng. Hiện nay ngoài các tổ chức phi chính phủ, có hàng trăm các tổ chức cộng đồng, các mạng lưới của người có hành vi nguy cơ cao, người nhiễm HIV tham gia cung cấp các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS.
Hợp tác quốc tế cũng là điểm sáng trong phòng, chống HIV/AIDS. Ngay từ đầu vụ dịch, Việt Nam đã tranh thủ và nhận được sự hỗ trợ to lớn của các tổ chức quốc tế. Chương trình phòng, chống HIV/AIDS đã huy động được nhiều nguồn tài chính quốc tế từ các nhà tài trợ song phương và đa phương… Có những giai đoạn sự hỗ trợ về nguồn lực của các tổ chức quốc tế chiếm tới hơn 70% tổng chi tiêu cho chương trình phòng, chống HIV/AIDS. Ngoài ra các chương trình, dự án quốc tế đã có những đóng góp quý báu về kỹ thuật để Việt Nam triển khai các sáng kiến mới, các mô hình can thiệp có tính chi phí hiệu quả, giúp Việt Nam thực hiện các mục tiêu đã cam kết với cộng đồng quốc tế. Nhiều mô hình đã trở thành điểm sáng để các quốc gia trên thế giới học tập.
Với những kết quả đã đạt được trong 30 năm qua, Việt Nam đã kiểm soát tốt đại dịch HIV/AIDS. 13 năm liền, Việt Nam đã chặn đà gia tăng của đại dịch, khống chế dịch trên cả 3 tiêu chí: Giảm số người nhiễm mới HIV, giảm số người tử vong do AIDS và giảm số người chuyển sang giai đoạn AIDS; tiến gần đến các mục tiêu 90-90-90 mà nước ta đã cam kết, tạo cơ hội để kết thúc dịch AIDS tại Việt Nam.
Và cơ hội chấm dứt đại dịch AIDS tại Việt Nam
Tư vấn điều trị PrEP phòng ngừa HIV cho người có nguy cơ lây nhiễm cao.
Ngày 14/8/2020, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia phòng, chống HIV/AIDS đến năm 2030 trong đó có mục tiêu chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030. Việc xây dựng Chiến lược mới là yêu cầu cấp thiết để bảo đảm cụ thể hóa đầy đủ, kịp thời chủ trương, đường lối của Đảng về công tác phòng, chống HIV/AIDS và phù hợp với tình hình mới. Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Ban Chấp hành Trung ương về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đặt ra mục tiêu vào năm 2030 Việt Nam về cơ bản chấm dứt dịch bệnh AIDS. Đây cũng là mục tiêu toàn cầu về phòng, chống HIV/AIDS. Để đạt được mục tiêu này cần phấn đấu đưa tỷ lệ người nhiễm HIV xuống dưới 1.000 ca mỗi năm vào năm 2030. Trong Chiến lược Quốc gia chấm dứt dịch bệnh AIDS vào năm 2030, đã đưa ra một số các nhóm giải pháp chủ yếu bao gồm:
Nhóm giải pháp về chính trị xã hội: Đây là một trong những nhóm giải pháp quan trọng, trong đó cần phải tăng cường thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đối với công tác phòng, chống HIV/AIDS. Nhóm giải pháp này cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chủ động của của địa phương và tham gia của các tổ chức xã hội, tổ chức dựa vào cộng đồng bao gồm cả cộng đồng người nhiễm HIV trong công cuộc phòng, chống HIV/AIDS.
Nhóm các giải pháp về pháp luật, chế độ chính sách: Mặc dù Việt Nam đã có một hệ thống pháp lý về phòng, chống HIV/AIDS khá đầy đủ. Tuy nhiên, mỗi giai đoạn lại có những vấn đề phát sinh nên cần được điều chỉnh bằng văn bản pháp luật và chế độ chính sách phù hợp. Hiện nay, Luật Phòng, chống HIV/AIDS cũng đang được đề xuất sửa đổi, bổ sung để bảo phù hợp với thực tế và đồng bộ với hệ thống pháp luật khác có liên quan. Đồng thời cũng cần tăng cường tổ chức việc phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS cũng như đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh đối với các hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống HIV/AIDS.
Các nhóm giải pháp về chuyên môn kỹ thuật như: Dự phòng lây nhiễm HIV bao gồm giảm kỳ thị và phân biệt đối xử; mở rộng và nâng cao chất lượng tư vấn xét nghiệm HIV; tăng cường điều trị, chăm sóc người nhiễm HIV; đẩy mạnh giám sát dịch HIV/AIDS, theo dõi, đánh giá và nghiên cứu khoa học cũng như ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác phòng, chống HIV/AIDS là hết sức quan trọng để đảm bảo cho mọi người có khả năng tiếp cận được các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS khi cần thiết. Các nhóm giải pháp này được điều chỉnh, bổ sung để phù hợp với tình hình dịch HIV/AIDS và những tiến bộ khoa học về phòng, chống HIV/AIDS hiện nay.
Các nhóm giải pháp về đảm bảo tài chính; về nguồn nhân lực; về cung ứng thuốc, sinh phẩm thiết yếu và hợp tác quốc tế sẽ là các giải pháp quan trọng cho việc triển khai các dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS một cách hiệu quả.