Khám phá protein điều hòa cholesterol
Tháng 2/2003, một nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu lâm sàng Montreal ở Canada phát hiện ra một loại proprotein convertase mới của con người. Gene quy định protein này nằm trên cánh tay ngắn của nhiễm sắc thể số 1. Sau khi nghiên cứu để kiểm tra chuỗi gene và chức năng của chúng, các nhà khoa học đã phát hiện ra PCSK9 và suy đoán rằng các đột biến có thể làm cho gene hoạt động quá mức dẫn tới tình trạng tăng cholesterol.
Khám phá ra protein có tên PCSK9 ngăn ngừa sự xuất hiện cholesterol xấu.
Trong cùng năm đó, các nhà nghiên cứu tại Đại học Rockefeller và Đại học Texas Southwestern đã khám phá ra cùng một protein ở chuột và đã tìm ra con đường mới để điều hòa LDL-cholesterol, trong đó PCSK9 có liên quan. PCSK9 là một protein nhắm đến các thụ thể LDL để thoái hoá chúng và do đó làm giảm khả năng của gan để loại bỏ LDL-cholesterol từ máu.
Các nghiên cứu đã chỉ ra các đột biến ở gene dẫn đến hoạt động PCSK9 quá mức, do đó loại bỏ quá nhiều thụ thể LDL và làm cho người mang đột biến có quá nhiều cholesterol-LDL.
Evolocumab là kháng thể đầu tiên được thiết kế để gắn kết với PCSK9 và ức chế PCSK9 gắn kết với các thụ thể LDL trên bề mặt gan. Vào tháng 7/2015, FDA đã phê duyệt phương pháp điều trị mới này.
Một thử nghiệm quốc tế với 27.000 bệnh nhân cho thấy những người dùng thuốc evolocumab giảm được cholesterol xấu của họ trung bình vào khoảng 60%. Loại thuốc mới này được dung nạp tốt ngay cả ở những bệnh nhân không thể dùng statin do tác dụng phụ. Các bệnh nhân trong thử nghiệm đã dùng statin đều có mức giảm cholesterol xấu rất khá. Tuy nhiên, những bệnh nhân tiêm evolocumab thấy mức cholesterol xấu của họ giảm nhiều hơn nữa. Họ cũng ít bị đau tim hoặc đột quỵ hơn so với những người uống giả dược.
Phát minh ra thuốc làm loãng máu là một đột phá trong điều trị bệnh tim mạch.
Thuốc làm loãng máu ngăn ngừa đột quỵ
Một loại thuốc làm loãng máu với giá rẻ có thể ngăn ngừa một trong năm cơn đau tim, đột quỵ hoặc tử vong do bệnh tim đang được các bác sĩ đánh giá là một bước đột phá lớn, đó là thienopyridin. Thuốc có đặc tính chống viêm và giảm đau đã được công bố trước đó bởi Công ty Yoshitomi. Hàng ngàn dẫn xuất của thienopyridin được tạo ra và được thử nghiệm lâm sàng ở động vật và may mắn thay, các nhà khoa học đã phát hiện ra tính chất làm loãng máu và chống huyết khối bất ngờ của một số hợp chất. Mối liên hệ giữa kết tập tiểu cầu, huyết khối và các biến cố tim mạch vẫn bị bỏ quên hoặc tranh cãi gay gắt bởi một số bác sĩ tim mạch thời điểm đó và trên thực tế, co thắt mạch máu được coi là nguyên nhân chính của các biến chứng lâm sàng của chứng xơ vữa động mạch.
Các nhà khoa học tiếp tục tổng hợp các chất tương tự thienopyridin để tìm ra các hợp chất có tỉ lệ hoạt động tốt và độc tính thấp hơn. Vào năm 1987, clopidrogel lần đầu được phát hiện và đưa vào thử nghiệm. Sau 10 năm phát triển và trải qua các nghiên cứu lâm sàng lớn hơn về tác dụng và độc tính, sản phẩm đã được đưa ra thị trường toàn cầu vào năm 1998.
Sự kết hợp đột phá mới trong điều trị suy tim
Suy tim nặng thường được điều trị bằng các chất ức chế ACE và chẹn thụ thể Angiotensin (ARB), qua đó làm cản trở hệ thống Renin-Angiotensin-Aldosterone. Vào những năm 70, một con đường thứ hai để điều trị suy tim bắt đầu mở ra khi các nhà khoa học khám phá ra một loại enzym làm giảm các peptide nội bào tĩnh mạch nội sinh neprilysin. Các nhà nghiên cứu cố gắng kết hợp chất ức chế neprilysin với ức chế ACE - Omapatrilat. Tuy nhiên, ở nhiều bệnh nhân xuất hiện biểu hiện phù mạch nghiêm trọng dẫn tới việc dùng thuốc bị hạn chế.
Sự đột phá xảy ra khi các nhà nghiên cứu thử nghiệm entresto (một hỗn hợp của sacubitril và valsarta khi so sánh với enalapril - một chất ức chế ACE) cho thấy ưu điểm vượt trội của entresto. Kết quả chỉ ra tử vong do tim mạch thấp hơn 20% ở nhóm điều trị; các trường hợp nhập viện vì suy tim là thấp hơn và tỉ lệ tử vong do mọi nguyên nhân thấp hơn 16% so với nhóm dùng enalapril. Điều đáng chú ý là tỉ lệ tác dụng phụ là thấp, chỉ có 0.1% bệnh nhân bị phù mạch.
FDA (Cục Quản lý an toàn thực phẩm và dược phẩm Mỹ) đã công nhận entresto với chỉ dẫn “giảm nguy cơ tử vong do tim mạch và nằm viện vì suy tim ở bệnh nhân suy tim mạn tính (NYHA II-IV) và giảm phân suất tống máu. Entresto thường được dùng phối hợp với các liệu pháp điều trị suy tim khác thay cho chất ức chế ACE hoặc ARB khác”.