Chính sách BHYT đã được triển khai thực hiện từ năm 1992 bằng việc ban hành các Nghị định của Chính phủ về thực hiện BHYT. Năm 2008, Luật BHYT đã được Quốc hội khóa XII thông qua, có hiệu lực từ ngày 1/7/2019. Đồng thời, ngày 16/6/2009, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 823/QĐ-TTg về việc lấy ngày 01 tháng 7 hàng năm là “Ngày BHYT Việt Nam”. 10 năm qua, tỷ lệ người dân tham gia BHYT tăng từ 45% vào năm 2009 lên 89,6% vào tháng 6/2019. Con số này đã vượt chỉ tiêu mà Thủ tướng Chính phủ giao là 88,1%. Trong đó người nghèo, người dân tộc thiểu số, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách xã hội đã được Nhà nước hỗ trợ toàn bộ mức đóng BHYT
Theo ông Phan Văn Toàn - Phó Vụ trưởng Vụ BHYT (Bộ Y tế), với kết quả này, mục tiêu đến năm 2020 có trên 90,7% dân số tham gia BHYT hoàn toàn có khả năng thực hiện được và phấn đấu tới năm 2025 có trên 95% dân số có BHYT theo mục tiêu mà Nghị quyết 20-NQ/TW đề ra. Như vậy, hiện nay còn gần 11% dân số (khoảng 10 triệu người) chưa có BHYT, thuộc nhóm tham gia theo hộ gia đình, làm nông lâm ngư nghiệp có mức sống trung bình, người lao động trong doanh nghiệp tư nhân và sinh viên.
“Một trong những lý do tỷ lệ tham gia BHYT gia tăng nhanh, vượt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao có liên quan đến chính sách và sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự tuyên truyền vận động có hiệu quả, chất lượng KCB BHYT, sự hài lòng của người bệnh ngày càng tăng, người dân đã tin tưởng vào chính sách BHYT....”- ông Phan Văn Toàn cho biết.
Khám chữa bệnh bằng BHYT.
Hướng tới mục tiêu giảm chi tiền túi từ hộ gia đình cho chi tiêu y tế
Về quyền lợi của người tham gia BHYT, ông Phan Văn Toàn cho biết, người tham gia BHYT thuộc các nhóm đối tượng khác nhau có các mức hưởng BHYT khác nhau: Người nghèo, đối tượng ưu đãi xã hội, trẻ em được hưởng 100%; người cận nghèo, người nghỉ hưu hưởng mức 95%, và người lao động hưởng 80%.
Quyền lợi BHYT (thuốc, vật tư y tế, kỹ thuật y tế...) được xác định trên cơ sở mức đáp ứng nhu cầu KCB của người tham gia BHYT, sự thay đổi về mô hình bệnh tật, sự phát triển của khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế, khả năng cân đối quỹ BHYT và khả năng chi trả của người tham gia, nhất là hướng tới mục tiêu giảm chi tiền túi từ hộ gia đình cho chi tiêu y tế.
Nhìn chung, quyền lợi về KCB BHYT tương đối toàn diện và ngày càng được mở rộng. Danh mục thuốc, vật tư y tế, dịch vụ kỹ thuật được sử dụng theo năng lực chuyên môn, tuyến chuyên môn kỹ thuật, vừa để đảm bảo quyền lợi của người có thẻ khi đến cơ sở y tế, vừa là yêu cầu nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật của cơ sở y tế.
“Càng ngày việc tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của người tham gia BHYT càng thuận lợi. Đặc biệt, từ năm 2015, người dân tộc thiểu số ở vùng khó khăn, người sống ở xã đảo, huyện đảo khi KCB trái tuyến tại tuyến tỉnh, tuyến trung ương đều được hưởng đầy đủ quyền lợi. Từ năm 2016, người tham gia BHYT khi KCB trái tuyến tại các cơ sở tuyến, xã tuyến huyện trong tỉnh và bệnh viện tuyến huyện trên toàn quốc đã được hưởng quyền lợi như KCB đúng tuyến (thông tuyến huyện)” - ông Phan Văn Toàn nhấn mạnh.
Song hành với việc mở rộng số lượng người tham gia BHYT, ngành y tế cũng tập trung nâng cao chất lượng KCB BHYT với hàng loạt biện pháp đổi mới, cải cách thủ tục hành chính, giảm phiền hà cho người bệnh.
Đặc biệt là đổi mới về quan điểm lấy người bệnh làm trung tâm; đổi mới về quản lý, cách làm và phương pháp kiểm tra, đánh giá bệnh viện hàng năm; Triển khai các đề án giảm tải, bác sĩ gia đình. Thực hiện chương trình “Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ của cán bộ y tế hướng tới sự hài lòng của người bệnh”; Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện, quản lý BHYT để giảm thủ tục, giảm thời gian chờ đợi của người bệnh, thực hiện công khai, minh bạch các khoản chi phí mà người bệnh phải chi trả.
Chưa điều chỉnh mức đóng BHYT trong thời gian tới
Trước mối lo của người dân về cân đối thu chi quỹ BHYT, đại diện Bộ Y tế cho biết, từ năm 2009, mức đóng được tăng từ 3% lên 4,5%, nên quỹ BHYT đã có kết dư (năm 2015 quỹ kết dư khoảng 52.000 tỷ đồng). Từ 2016 có điều chỉnh giá dịch vụ y tế, nhu cầu KCB tăng và các dịch vụ kỹ thuật mới, thuốc mới được quỹ BHYT chi trả, nhưng quỹ BHYT vẫn đảm bảo cân đối thu - chi do có nguồn kết dư và nguồn quỹ dự phòng.
Trong một vài năm tới chưa cần điều chỉnh mức đóng BHYT, do đó chưa tác động đến nguồn ngân sách nhà nước (hỗ trợ đóng cho đối tượng ưu đãi xã hội, đối tượng khó khăn) cũng như chưa tác động đến nguồn thu của các doanh nghiệp và người lao động.
Cùng với ngân sách nhà nước dành cho y tế, BHYT đã tạo ra nguồn tài chính công quan trọng cho việc KCB, nguồn chi từ quỹ BHYT đang trở thành nguồn thu chủ yếu của các bệnh viện, nhất là bệnh viện tuyến huyện (trên 80%).