Nghiện rượu là một bệnh mạn tính, mức độ phổ biến của nghiện rượu ở người lớn là 1-10% dân số. Theo WHO, nghiện rượu là sự thèm muốn, đòi hỏi thường xuyên uống rượu, dẫn đến rối loạn nhân cách, thói quen, giảm khả năng lao động ảnh hưởng đến sức khoẻ. Đây cũng là cảnh báo cho những cuộc chè chén ngày Tết.
Các giai đoạn của bệnh nghiện rượu
Giai đoạn I (suy nhược): Triệu chứng đầu tiên của nghiện rượu là mất phản xạ nôn khi uống rượu quá liều. Có biến đổi khả năng dung nạp rượu, bệnh nhân uống được lượng rượu cao hơn liều tối đa cho phép. Người bệnh có rối loạn trí nhớ và thay đổi tính nết rõ ràng. Họ trở nên tàn bạo, hay quấy nhiễu, dễ nổi khùng, đa nghi, uể oải, đuối sức, làm việc chóng mệt mỏi, rối loạn chú ý, đau đầu, mất ngủ..., luôn thèm rượu và tìm mọi cách để uống rượu. Liều lượng rượu mạnh uống trong 1 ngày là 400-500ml và có thể hơn nữa. Họ có thể có các rối loạn khác như tăng huyết áp, viêm gan, viêm tụy, viêm dạ dày, viêm thực quản, viêm đại tràng. Giai đoạn này kéo dài 1-6 năm phụ thuộc vào cường độ uống rượu.
Lạm dụng rượu sẽ gây nghiện rượu. |
Giai đoạn II (có hội chứng cai): Người bệnh không đủ nghị lực để đấu tranh với cơn thèm rượu. Các triệu chứng ở giai đoạn I tăng thêm. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn này là hội chứng cai xảy ra khi bệnh nhân ngừng uống rượu vài giờ hoặc vài ngày. Hội chứng cai thể hiện bằng các triệu chứng rối loạn tâm thần và các triệu chứng rối loạn thần kinh thực vật: Run tay, nhịp tim nhanh, nôn, buồn nôn, có cơn kích động, khí sắc giảm, buồn rầu, dễ bực tức, giận dữ. Bệnh nhân cảm thấy sợ hãi vô duyên cớ và có các ý tưởng tự buộc tội mình, có thể có ảo thị và ảo thanh thật; Giấc ngủ không sâu, nhiều ác mộng, có khi mất ngủ hoàn toàn; Có cơn co giật kiểu động kinh, có ý tưởng và hành vi tự sát. Các triệu chứng này giảm hoặc mất đi nhanh chóng khi bệnh nhân uống rượu trở lại. Giai đoạn này thường kéo dài 3-5 năm.
Giai đoạn III (bệnh não thực tổn do rượu): Triệu chứng ở giai đoạn II nặng lên và xuất hiện thêm các triệu chứng mới, thèm rượu có khuynh hướng giảm đi, khả năng dung nạp rượu kém. Trạng thái say xảy ra với liều lượng nhỏ hơn giai đoạn I và II. Trong giai đoạn này, bệnh nhân chỉ uống được 150-200 ml rượu mạnh mỗi lần là đã say và thời gian say kéo dài hơn trước. Hội chứng cai ở giai đoạn này diễn ra dài hơn, rối loạn thần kinh vận mạch, rối loạn cơ thể cũng nặng nề hơn giai đoạn I và II.
Giai đoạn bệnh não thực tổn do rượu có đặc điểm uống rượu liều nhỏ nhưng thường xuyên hằng ngày. Khi bệnh nhân tiếp tục uống rượu thì khả năng dung nạp rượu càng giảm do những biến đổi thực tổn ngày càng nặng nề, nổi bật ở giai đoạn này là nhân cách người bệnh suy đồi, bất chấp sự lên án của gia đình và xã hội, mọi suy nghĩ chỉ tập trung vào rượu; Xuất hiện các hoang tưởng ghen tuông, chống đối xã hội, hành vi thô bạo, hay nổi khùng, đôi khi bệnh nhân trầm cảm, trí nhớ giảm, chú ý giảm, gần như mất khả năng học tập lao động vốn có.
Có thể say rượu thông thường hoặc say rượu bệnh lý
Say rượu bệnh lý là các rối loạn tâm thần cấp tính xảy ra trong một khoảng thời gian ngắn do uống rượu, không chỉ với một lượng rượu lớn mà cả khi uống chỉ một lượng rượu nhỏ. Người bệnh rối loạn ý thức, rối loạn ngôn ngữ, có hành vi nguy hiểm cho xã hội. Trạng thái này kết thúc đột ngột như khi chúng bắt đầu, đôi khi bằng giấc ngủ sâu. Người bệnh không nhớ những gì xảy ra trong cơn. Còn trong say rượu thông thường chỉ có rối loạn ngôn ngữ và trạng thái choáng váng.
Một số yếu tố thuận lợi cho nghiện rượu
- Tuổi: Ngày càng có nhiều người trẻ uống rượu, vì vậy tỷ lệ người trẻ nghiện rượu tăng cao. Có người tử vong vì sảng rượu ở lứa tuổi 30.
- Di truyền: Con của những cặp vợ chồng nghiện rượu có nguy cơ nghiện rượu cao gấp 2 lần so với con những cặp vợ chồng không nghiện.
- Nghề nghiệp: Lao động giản đơn, người làm nghề sản xuất rượu, bán rượu, người bán hàng ở nơi giải trí, thuỷ thủ, nhà báo, bác sĩ, người thất nghiệp...
- Hôn nhân: Người nghiện rượu có nhiều vấn đề về hôn nhân. Mâu thuẫn gia đình là khó tránh khỏi, tỷ lệ ly hôn ở người nghiện rượu cao, người chồng hay đánh chửi vợ, từ đó dẫn đến tan nát gia đình.
Uống rượu nhiều gây ngộ độc cấp, có thể dẫn tới tử vong. Uống rượu và ăn kém làm thiếu protein máu, thiếu vitamin B1, dễ bị tai nạn giao thông, lao động. Người nghiện rượu thường gặp các tổn thương: viêm gan, xơ gan, viêm dạ dày, ruột; Tổn thương thần kinh: teo não và các bệnh não do rượu, viêm đa dây thần kinh. Thiếu máu, các bệnh tim mạch: tăng huyết áp, giãn cơ tim. Tổn thương tụy và các rối loạn chuyển hóa, tổn thương tuyến sinh dục, tổn thương thai nhi ở phụ nữ có thai.Về tâm thần: rối loạn cảm xúc, nhân cách, rối loạn chức năng tình dục, có ý tưởng và hành vi tự sát, ghen tuông bệnh lý...
Điều trị nghiện rượu
Điều trị hội chứng phụ thuộc rượu: bệnh nhân tự nguyện hoặc bị cưỡng ép vào điều trị nội trú tại các cơ sở y tế để cắt hội chứng cai bằng benzodiazepin. Sử dụng seduxen 10mg x 2 ống/ ngày, tiêm bắp sáng, tối, trong 5-7 ngày
Điều trị chống tái nghiện
Dùng Disulfiram (Esperal). Cách dùng: Disulfiram 150-250mg uống vào buổi sáng, bệnh nhân không uống rượu dưới mọi hình thức. Uống thuốc kéo dài nhiều tháng, thậm chí nhiều năm.
- Điều trị các rối loạn cơ thể khác: viêm gan do rượu, viêm dạ dày, tăng huyết áp, xơ gan do rượu... bằng các thuốc thích hợp. Phải sử dụng vitamin nhóm B (B1, B6, B12) do liều cao ngay từ đầu để khắc phục tình trạng thiếu vitamin nhóm B trầm trọng mạn tính ở bệnh nhân nghiện rượu. Sử dụng acid folic 1mg/24 giờ để phòng các bệnh não do rượu.
PGS.TS. Cao Tiến Đức