Dòng sông Ðà kỳ vĩ và hung dữ luôn có những kẻ sẵn sàng vật lộn với nó để tranh giành của cải và sự sống. Khi các dòng suối “nô nức” hợp với sông Ðà, chúng mang theo nhiều gốc cây rừng, được thiên nhiên tạo thành vô số hình hài. Mùa lũ về, khi con nước tạo thành các ống xoáy lại đúng vào “mùa kiếm cơm”. Cách nơi dòng nước biến thành điện không xa, có một người đàn ông đang âm thầm chiến đấu, tìm lại chính mình trước nỗi ám ảnh mang tên “nàng tiên nâu”. Ông đã phiêu dạt nhiều nơi, trải qua nhiều sóng gió cuộc đời và ông đã chiến thắng.
Quá khứ cộm cán của “đại ca đảo nghiện”
Câu chuyện hoàn lương của một con người vốn là thương lái khét tiếng giàu có một thời thực sự là một câu chuyện cảm động, mang đậm chất nhân văn. Người ta vẫn gọi ông Lương Văn Giang, ở xóm Tháu, xã Thái Thịnh, TP. Hòa Bình (Hòa Bình) là Giang “đại ca” hay Giang “nghiện”. Và mãi về sau có một cách gọi nơi hoang vu giữa lòng hồ thủy điện Hòa Bình là “Rôbinsơn” trên đảo Giang “nghiện”. Cách gọi đó đều là ấn tượng về một thời đã xa, ghi nhận sự đổi thay tốt đẹp của một con người và vùng đất mới, nhờ bàn tay lao động chân chính của người đàn ông 54 tuổi này. Cho tới tận bây giờ, mỗi khi nghĩ lại quãng thời gian đã qua, Lương Văn Giang không khỏi rùng mình. Hạnh phúc chỉ đến với những con người có nghị lực, ý chí…
Năm 1980, đi bộ đội về, chàng thanh niên Lương Văn Giang chất chứa trong mình khát vọng làm giàu trên mảnh đất Hòa Bình nghèo khó. Thời điểm anh có mặt tại Hòa Bình thì mảnh đất này vô cùng hoang vu, heo hút với núi đá, rừng rậm. Có sức khỏe, lăn lộn kiếm sống bằng đủ nghề lương thiện, nhưng mãi mà giấc mộng đó vẫn chưa thành. Một chuyến theo bạn bè ngược dòng sông Đà, thấy nơi đây rất nhiều lâm sản quý hiếm, gỗ rừng bạt ngàn, lại thấy ở hạ lưu sông Đà, giá gỗ cao ngất ngưởng, Giang quyết tâm khăn gói lên Sơn La để làm… lâm tặc.
Ngay bè gỗ đầu tiên, Giang đã thu lãi gấp 10 lần. Có vốn, anh thuê nhân công đi khắp các bản ở Sơn La, Lai Châu thu mua gỗ rồi cứ thong dong theo dòng sông Đà đưa về xuôi. Vài năm sống với nghề phá rừng ấy, từ một kẻ thất nghiệp kiết xác, Giang thành đại gia cỡ bự. Tiền nhiều, ăn chơi khét tiếng, cộng với cuộc sống giang hồ phiêu bạt nơi rừng thiêng nước độc, ông nghiện ma túy từ bao giờ không nhớ.
Lương Văn Giang làm lại cuộc đời trên sông nước. |
Chỉ vài năm nằm bẹp, chân co chân duỗi với nàng tiên nâu, Giang đã vét đến đồng tiền cuối cùng trong tay nải. Thân tàn ma dại, dặt dẹo khắp nơi với cơn đói thuốc, tay giang hồ cộm cán một thuở đành phải về quê, lang thang cùng đám dân tứ chiếng, những mong ngày có vài “bữa” “cơm đen”. Cũng đến lúc không thể giấu giếm gia đình được nữa, người cha già nghiêm khắc tuyên bố sẽ từ mặt con, nếu không cai được nghiện. Biết đứa con trai từng là niềm hy vọng của gia đình mắc nghiện, ông Lương Bá Giá buồn lắm. Sau nhiều đêm trằn trọc, ông Giá họp gia đình và quyết định Giang phải gác thuyền lên bờ cai nghiện.
“Rôbinsơn” trong khe núi sinh tồn
Năm 1990, Nhà nước có chủ trương các phường của thị xã Hòa Bình tham gia nhận đất trồng rừng phòng hộ tại vùng núi thuộc xóm Tháu, xã Thái Bình. Ông Giá liền nhận đất và “cắm” Giang vào đó. Lúc này, Giang đã nghiện thuốc phiện gần 10 năm. Đứa con gái đầu 6 tuổi, con trai thứ hai lại vừa ra đời. Ông Giá tuyên bố: Giang cứ ở trong núi và quyết tâm cai nghiện, ông bà sẽ nuôi các cháu đến đủ 18 tuổi.
Sông Đà mới ngăn, nước ngập trên một diện lớn, muông thú tìm đường lên cao, trong đó cơ man nào là rắn rết. Rắn vào bắt gà, cắn chó… Trước khi vào rừng, phải cầm sào vụt mạnh một hồi vào cây cối, lau sậy để đuổi rắn rết. Một lều tranh, một xoong nhôm, một chiếc màn cùng với vài con dao, Giang bắt đầu phát rừng mà thời đó gọi là phát lại lòng hồ. Lúc đầu trồng ngô, đậu, sau đó trồng cây… nhưng thuốc phiện thì chưa bỏ được.
Chị Phạm Thị Huệ - vợ Giang kể: Anh ấy phát cây, em tranh thủ nhặt củi. Gánh gánh củi ra tận phố Lau Nghĩa bán được vài nghìn thì phải mua vài bi về cho anh ấy. Thấy kéo dài mãi không ổn, ông em bảo “con không được mua thuốc phiện cho nó nữa. Nó không chịu cai thì cứ để nó chết luôn trong núi”. Ba mươi Tết năm 1994, em quyết định nghe lời bố chồng mà không mua thuốc phiện cho chồng nữa. Chiều muộn, em từ thị xã vào núi Tháu, chồng em chạy ào ra hỏi thuốc phiện. Khi biết em không mua, anh ấy gào thét rồi hất hết đồ sắm tết, quăng quật bát đũa và đánh chửi em. Còn em ứa nước mắt cam chịu.
Sau khi quăng quật đồ đạc và chửi mắng vợ xong, cơn vật kéo dài. Giang không dám ở lều mà đi ra rừng một mình. Gần đấy có một tảng đá to bằng một gian nhà, Giang cứ thế mà bò vòng quanh, mà cào cấu, mà cọ người vào đá. Mệt quá, trong cơn mơ màng, anh nghĩ vào đến đây mà không ở đây được thì chỉ có vào trại giam thôi. Từ đó anh quyết tâm và những ngày cai nghiện bắt đầu. Như thế, kể từ khi lên núi năm 1990 cũng phải 4 năm sau, Giang mới chính thức cai nghiện.
Mỗi khi cơn vật kéo đến, Giang bảo vợ lánh vào rừng để mặc anh một mình vì anh sợ không chịu nổi cơn vật mà gây ra điều đáng tiếc với chị. Hằng ngày, phát cây một buổi, còn một buổi chị Huệ gánh củi xuống núi bán. Mỗi gánh củi bán được 5 ngàn đồng thì mua một chai bia Tàu 2 ngàn, 2 ngàn mua thức ăn còn 1 ngàn mua gạo cho hai bữa.
Chị Huệ còn nhớ như in có hôm không bán được củi, chị hỏi cắm đôi dép tông đang đi để vay tiền của một bà bán hàng khô ở chợ Phương Lâm để mua gạo. Bà cụ bảo: Tao giữ đôi dép của mày để mày đi chân không mà trèo núi thì còn ra thế nào? Thế là bà cụ lại cho vay tiền. Cuộc sống cơ cực, lam lũ quanh năm làm chị Huệ già đi trước tuổi. Thế rồi họ nuôi gà. Trứng gà và bia Tàu là những thứ phục vụ Giang cai nghiện. Sự nghiêm khắc, tình yêu thương của những người thân trong gia đình, cộng với sự quyết tâm của bản thân mà bây giờ anh gọi là sự biết sợ đã giúp anh quên dần ma túy.
Với 7ha đất dốc, vợ chồng anh quy hoạch trồng bưởi, vải, nhãn và na. Vườn rừng khép tán và xanh tươi. Thấp thoáng trong màu xanh ấy là vài chú bò vàng bám móng vào đồi dốc mà gặm cỏ. Bằng thu nhập từ vườn rừng và chăn nuôi, kết hợp với sự giúp đỡ của bố mẹ, năm 2003, một căn nhà xây được mọc lên tại khe núi Tháu. Cháu Lương Thị Hương sinh năm 1984 - con gái lớn của vợ chồng Giang đã có gia đình riêng; con trai thứ hai Lương Bá Hùng, năm nay vào lớp 12.
Tôi tha thẩn trong “vương quốc” của vợ chồng anh hàng giờ mà tìm tòi, suy ngẫm. Vài cây mơ mai già mốc, mấy gốc quýt chỉ thiên một thời hồ hởi trồng theo định hướng “Cây - non” rồi nhanh chóng bị núi đồi thải loại, một cây bơ rợp bóng bên cạnh tảng đá to mà anh đã bò ngày cai nghiện… được anh giữ lại để nhớ một thời đau khổ với thuốc phiện. Rồi vườn luồng mỗi năm cho thu hoạch hàng chục tấn măng, vườn na, vườn hồng trĩu quả… 17 năm đối với đời một con người thế là dài.
Chứng tích của 17 năm là từ một khe núi Tháu sỏi đá mà vợ chồng anh bao lần lóp ngóp từ hồ lên, bám cây tụt dốc xuống… các loại cây góp mặt tạo nên diện mạo một vườn rừng hôm nay đánh dấu chặng thời gian đã qua để có một vườn rừng tươi tốt. Và hơn thế là một Lương Văn Giang chiến thắng tử thần. Tính đến nay, anh đã từ bỏ ma túy được 14 năm. Ngồi nhấm nháp ly rượu lúc cao hứng, anh tự nhận mình là “Rôbinsơn trong khe núi sinh tồn”.
Bài và ảnh: Như Hùng