Chuyển giao công nghệ vaccin: Cơ hội và thách thức

14-12-2010 08:18 | Tin nóng y tế

Từ năm 2008 , Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề xuất chiến lược hành động vì sức khỏe cộng đồng ứng phó với dịch bệnh và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn cầu.

Từ năm 2008 , Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đề xuất chiến lược hành động vì sức khỏe cộng đồng ứng phó với dịch bệnh và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn cầu. Hai mục tiêu lớn của chiến lược này là xây mới và nâng cao năng lực sản xuất vaccin ở các nước đang phát triển bằng công cụ “chuyển giao công nghệ”.

Phiên họp lần này WHO tổ chức ở Geneva trong 2 ngày 30/11 và 1/12/2010 nhằm đánh giá toàn diện việc thực hiện các dự án chuyển giao công nghệ vaccin trên thế giới từ trước đến nay, phân tích các bài học cụ thể từ các báo cáo điển hình, kiến nghị các giải pháp chung cho giai đoạn tiếp theo. Thành phần tham dự có các chuyên gia WHO, các công ty đa quốc gia (GSK , Sanofi …), các viện nghiên cứu, trường đại học lớn (IVI ,NVI, Duke …), các tổ chức phi chính phủ (PATH, Quỹ Bill Gate, DCVMN...) và một số nhà sản xuất vaccin ở Ấn Độ, Trung Quốc, Brazil, Indonesia, Việt Nam…

Tiếp nhận chuyển giao công nghệ vaccin

Việt Nam đã từng chuyển giao công nghệ vaccin cho các nước khác

Từ khi Công ty Vabiotec chuyển giao công nghệ sản xuất vaccin tả uống cho Ấn Độ vào năm 2008 đã mở đầu cho việc Việt Nam không chỉ tham gia công việc này với tư cách là bên nhận. Tương lai không xa, khi chúng ta hội nhập sâu vào lĩnh vực này, sẽ có nhiều loại vaccin do công nghệ của Việt Nam làm ra được chuyển giao.

Với phương châm tự túc vaccin, ngay từ ngày lập nước (1945) Nhà nước ta đã chú trọng phát triển công nghệ sản xuất vaccin. Tiếp thu công nghệ từ hệ thống các viện Pasteur thời Pháp thuộc trong hai cuộc kháng chiến giữ nước, chúng ta đã tự túc được nhiều vaccin dự phòng, cơ bản bảo vệ sức khỏe bộ đội và nhân dân. Từ năm 1958, Viện Vệ sinh dịch tễ Hà Nội (nay là Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương) đã tiếp nhận thành công vaccin bại liệt sống uống từ Liên Xô, cũ nhờ đó, Việt Nam đã tuyên bố xóa bỏ bệnh này trên cả nước từ năm 2000.

Sau năm 1975, công nghệ vaccin được tập trung phát triển ở 4 cơ sở: Viện IVAC Nha Trang, Công ty Vaccin Vabiotech Hà Nội, Trung tâm Polyovac và Viện Pasteur thành phố Hồ Chí Minh.

Từ năm 1991, nhờ UNICEF trợ giúp, IVAC đã tiếp thu công nghệ chuyển giao từ Hà Lan, Hungary phát triển vaccin DTP trên hệ thống lên men tự động. Nhờ đó IVAC đã cung cấp 5 loại vaccin đáp ứng 100% nhu cầu của Chương trình Tiêm chủng mở rộng Quốc gia (EPI) và xuất khẩu. Năm 1997, IVAC cũng đã tiếp nhận công nghệ sản xuất vaccin thương hàn vi từ Mỹ (Viện NIH) nay ở Đà Lạt, Công ty vaccin Pasteur đã sản xuất vaccin này cho EPI và xuất khẩu sang Nigeria. Polyvac ở Hà Nội đã tiếp nhận công nghệ sản xuất vaccin sởi sống đông khô từ Nhật từ năm 2005 đến nay đã có vaccin cho EPI.

Có được các thành công trên đây là nhờ: chủ trương đúng đắn của Nhà nước trong việc kết hợp chiến lược tự túc vaccin và mở cửa tiếp nhận công nghệ khi có cơ hội; đội ngũ cán bộ sản xuất vaccin đầy kinh nghiệm, năng lực sáng tạo và uy tín quốc tế; tầm nhìn và năng lực quản lý của lãnh đạo Bộ Y tế qua các thời kỳ cộng với sự hỗ trợ kịp thời của các cơ quan ban ngành liên quan như kiểm định quốc gia, viện nghiên cứu và trường đại học.

 

 Cơ sở sản xuất vaccin cúm do WHO tài trợ tại IVAC đã hoạt động từ tháng 12/2009.

Những bài học

Chuyển giao công nghệ vaccin có ý nghĩa kinh tế xã hội rất lớn cho cả hai phía, nhất là ở các nước đang phát triển vì nó thúc đẩy phát triển công nghệ, người dân được hưởng vaccin chất lượng cao với giá hạ, đồng thời tăng tính pháp lý về quyền sở hữu trí tuệ trên phạm vi toàn cầu. Thông qua các báo cáo điển hình, Hội nghị thấy rõ vai trò của chuyển giao công nghệ tại các nước có nền kinh tế mới nổi trên thế giới như Brazil, Ấn Độ, Trung Quốc …

Muốn chuyển giao công nghệ thành công cần các yếu tố sau: Sự cam kết về pháp lý, tài chính và thị trường của Chính phủ với các công ty bên nhận chuyển giao; Sự hỗ trợ tài chính của các tổ chức quốc tế; Thiện chí và năng lực quản lý công nghệ tài chính của hai bên đối tác; Các vấn đề thị trường (giá cả sản phẩm, nhu cầu nội địa và xuất khẩu); Xác định được thời gian và khả năng thu hồi vốn.  

GS. TS. Lê Văn Hiệp


Ý kiến của bạn